Chỉ mục bài viết
Đạo: Ba kho báu Tập 1
Bài nói về trích đoạn Đạo Đức Kinh của Lão Tử
Tựa đề nguyên bản tiếng Anh: Tao: The Three Treasures Vol. 1
Copyright © Osho International Foundation, www.osho.com.
Download sách dạng pdf và prc tại đây.
Talks given from 11/06/75 am to 20/06/75 am
Đạo thường hằng Đạo có thể nói ra không là Đạo thường hằng khi nổi lên các cực tương đối Thiên hạ đều biết tốt là tốt, Thì đã có xấu rồi; Đều biết lành là lành Thì đã có cái chẳng lành rồi Bởi vậy: Có và không cùng sinh, Khó và dễ cùng thành, Dài và ngắn cùng chiều, Cao và thấp cùng nhau, Giọng và tiếng cùng hoạ, Trước và sau cùng theo.
Vậy nên hiền nhân: Dùng vô vi mà xử sự; Dùng vô ngôn mà dạy dỗ; Để cho mọi vật nên mà không
cản Tạo ra mà không chiếm đoạt Làm mà không cậy công; Thành công mà không ở lại. Vì không ở lại Nên không bị bỏ đi Đạo thường hằng Tôi nói về
Mahavira như phần nghĩa vụ của mình - trái tim tôi chưa bao giờ ở cùng ông ấy
cả. Ông ấy quá toán học. Ông ấy không phải là nhà huyền môn, ông ấy không có
tính thơ ca của bản thể. Ông ấy vĩ đại, đã chứng ngộ, nhưng giống như sa mạc
bao la; bạn không thể bắt gặp ốc đảo trong ông ấy. Nhưng bởi vì tôi đã được
sinh ra là một người Jaina nên tôi phải trả món nợ nào đó. Tôi nói về ông ấy
như bổn phận của mình bởi trái tim tôi không có đó; tôi nói chỉ từ tâm trí. Khi
tôi nói về Mahavira tôi nói như một người ngoài. Ông ấy không ở bên trong tôi
và tôi không ở bên trong ông ấy. Cùng điều đó
cũng đúng với Moses và Mohammed. Tôi không
cảm thấy thích nói về họ. Giá mà tôi đã không được sinh ra là một người Jaina
thì tôi đã chẳng bao giờ nói về Mahavira cả. Nhiều lần các đệ tử Mô ha mét giáo
hay các đệ tử Do Thái giáo của tôi cứ tới tôi và nói, "Sao thầy không nói
về Mohammed hay Moses?" Khó mà giải thích được cho họ. Nhiều lần, chỉ nhìn
vào khuôn mặt họ, tôi quyết định rằng tôi sẽ nói; nhiều lần tôi nhìn đi nhìn
lại vào những lời của Moses và Mohammed, thế rồi tôi lại trì hoãn điều đó.
Không tiếng chuông nào vang lên trong tim tôi. Nó không sống - nếu tôi mà nói
thì nó sẽ là điều chết. Tôi thậm chí không cảm thấy có nghĩa vụ với họ như tôi
cảm thấy với Mahavira. Họ tất cả
đều thuộc vào cùng một loại: họ quá tính toán, cực đoan; họ bỏ lỡ cực đối lập.
Họ là một nốt nhạc, không hài hoà, không hoà âm. Một nốt có cái đẹp của nó -
cái đẹp của khổ hạnh - nhưng nó đơn điệu. Thỉnh thoảng thì được, nhưng nếu nó
cứ liên tục, bạn cảm thấy chán; bạn sẽ muốn chấm dứt nó. Các nhân cách của
Mahavira, Moses và Mohammed đều giống như một nốt - đơn giản, khổ hạnh, thậm
chí thỉnh thoảng đẹp. Nhưng nếu tôi gặp Mahavira, Moses hay Mohammed trên đường,
tôi sẽ bày tỏ kính trọng và trốn mất. Tôi nói về Krishna. Ông ấy đa chiều, siêu nhân, huyền bí, nhưng dường như nhiều huyền thoại hơn là con
người thực. Ông ấy phi thường tới mức ông ấy không thể thế được. Trên thế gian
này những người phi thường như vậy không thể tồn tại được - họ chỉ tồn tại như
giấc mơ. Và huyền thoại chẳng là gì ngoài giấc mơ tập thể. Toàn bộ nhân loại đã
từng mơ về họ… đẹp, nhưng không thể tin được. Tôi nói về Krishna và tôi thích
thú điều đó, nhưng tôi thích thú điều đó như người ta thích thú một câu chuyện
hay và việc kể lại câu chuyện hay. Nhưng điều đó không có ý nghĩa nhiều lắm,
chuyện tầm phào khổng lồ. Tôi nói về
Jesus Christ. Tôi thấy đồng cảm sâu sắc với ông ấy. Tôi muốn chịu đựng cùng ông
ấy và tôi muốn mang hộ cây thập tự của ông ấy chút ít bên cạnh ông ấy. Nhưng
chúng tôi vẫn còn song hành, chúng tôi chưa bao giờ gặp nhau cả. Ông ấy buồn
thế, nặng gánh thế - nặng gánh với khổ của cả nhân loại. Ông ấy không thể cười
được. Nếu bạn đi với ông ấy quá lâu, bạn sẽ trở nên buồn, bạn sẽ đánh mất tiếng
cười. U sầu bao quanh ông ấy. Tôi cảm nhận ông ấy nhưng tôi không thích giống
ông ấy. Tôi có thể bước đi cùng ông ấy một chút và chia sẻ gánh nặng của ông ấy
- nhưng thế rồi chúng tôi chia tay. Con đường của chúng tôi là khác nhau. Ông
ấy tốt, nhưng lại quá tốt, gần như tốt siêu nhân nhân. Tôi nói về
Zarathustra - rất hãn hữu, nhưng tôi yêu con người này như một người bạn yêu
một người bạn khác. Bạn có thể cười cùng ông ấy. Ông ấy không phải là nhà đạo
đức, không phải là người luân lí khắt khe; ông ấy có thể tận hưởng cuộc sống và
mọi thứ mà cuộc sống đem lại. Một người bạn tốt - bạn có thể ở cùng ông ấy mãi
mãi - nhưng ông ấy chỉ là người bạn. Tình bạn là tốt, nhưng chưa đủ. Tôi nói về Phật
- tôi yêu ông ấy. Trong suốt nhiều thế kỉ, qua nhiều kiếp sống, tôi đã yêu ông
ấy. Ông ấy cực kì đẹp đẽ, đẹp phi thường, siêu phàm. Nhưng ông ấy không trên
đất, ông ấy không bước trên đất này. Ông ấy bay trên trời và không để lại dấu
chân nào. Bạn không thể theo được ông ấy, bạn chưa bao giờ biết chỗ ở của ông
ấy. Ông ấy giống như mây. Đôi khi bạn gặp ông ấy nhưng điều đó chỉ là tình cờ.
Và ông ấy tinh tuý đến mức ông ấy không thể bắt rễ vào đất được. Ông ấy được dự
định cho cõi trời cao hơn nào đó. Theo cách đó thì ông ấy là người một chiều. Đất
và trời không gặp nhau trong ông ấy; ông ấy mang phần trời nhưng phần đất lại
bỏ lỡ; ông ấy giống như ngọn lửa, đẹp, nhưng không có dầu, không bình chứa -
bạn có thể thấy ngọn lửa nhưng nó cứ đi lên cao mãi, chẳng cái gì giữ lại dưới
đất cả. Tôi yêu ông ấy, tôi nói về ông ấy từ trái tim tôi, nhưng dầu vậy, khoảng
cách vẫn còn. Nó bao giờ cũng vẫn còn trong hiện tượng của tình yêu - bạn tới
ngày một gần hơn và gần hơn, nhưng cho dù trong gần gũi đó vẫn có khoảng cách.
Đó là nỗi khổ của mọi người yêu. Tôi nói về Lão
Tử một cách hoàn toàn khác. Tôi không có quan hệ với ông ấy bởi vì ngay cả để
có quan hệ thì khoảng cách là cần. Tôi không yêu ông ấy, bởi vì làm sao bạn có
thể yêu chính bản thân mình được? Khi tôi nói về Lão Tử, tôi nói như thể tôi
đang nói về bản thân mình vậy. Hiện hữu của tôi hoàn toàn là một với ông ấy.
Khi tôi nói về Lão Tử cứ dường như là tôi đang nhìn vào trong tấm gương - khuôn
mặt tôi được phản xạ lại. Khi tôi nói về Lão Tử, tôi hoàn toàn cùng ông ấy.
Thậm chí nói "hoàn toàn cùng ông ấy" cũng không đúng - tôi là ông ấy,
ông ấy là tôi. Các nhà sử học
hoài nghi về sự tồn tại của ông ấy. Tôi không thể hoài nghi sự tồn tại của ông
ấy bởi vì làm sao tôi có thể hoài nghi kinh nghiệm riêng của mình được? Khoảnh
khắc tôi trở nên có thể thì ông ấy trở nên đúng với tôi. Thậm chí nếu lịch sử
có chứng minh rằng ông ấy chưa bao giờ tồn tại thì điều đó cũng chẳng khác biệt
gì đối với tôi cả; ông ấy phải đã tồn tại bởi vì tôi tồn tại - tôi là bằng
chứng. Trong những ngày sau đây, khi tôi nói về Lão Tử, đấy không phải là tôi
nói về ai đó khác. Tôi nói về bản thân mình - dường như Lão Tử đang nói qua một
cái tên khác, một nama-rupa khác, một hoá thân khác. Lão Tử không
giống Mahavira, không toán học chút nào, vậy mà ông ấy lại rất, rất logic trong
tính điên khùng của mình. Ông ấy có logic điên! Khi chúng ta thấm sâu vào trong
lời của ông ấy, bạn sẽ đi tới cảm thấy điều đó; nó không hiển nhiên và rõ ràng.
Ông ấy có logic của riêng mình; logic của ngớ ngẩn, logic của nghịch lí, logic
của người điên. Ông ấy đánh mạnh. Logic của
Mahavira có thể được ngay cả người mù hiểu. Để hiểu logic của Lão Tử bạn sẽ
phải tạo ra đôi mắt. Nó rất tinh tế, nó không phải là logic thông thường của
các nhà logic - nó là logic của cuộc sống ẩn kín, cuộc sống rất tinh tế. Bất kì
điều gì ông ấy nói đều ngớ ngẩn trên bề mặt; sâu bên dưới nhất quán rất lớn lao
sống ở đó. Người ta phải hiểu thấu nó; người ta phải thay đổi tâm trí mình để
hiểu Lão Tử. Mahavira bạn có thể hiểu mà không thay đổi tâm trí mình chút nào;
như bạn hiện tại, bạn có thể hiểu Mahavira. Ông ấy là trên cùng một đường. Dù ông
ấy ở phía trước bạn nhiều đến mấy, dù ông ấy có thể đã đạt tới đích, nhưng ông
ấy vẫn trên cùng đường, cùng con đường mòn. Khi bạn cố hiểu
Lão Tử, ông ấy đi dích dắc. Đôi khi bạn thấy ông ấy đi sang phương đông rồi đôi
khi lại sang phương tây, bởi vì ông ấy nói đông là tây và tây là đông, chúng là
cùng nhau, chúng là một. Ông ấy tin vào thống nhất của các cái đối lập. Và đó
là cách thức của cuộc sống. Cho Nên Lão Tử chính là người phát
ngôn của cuộc sống. Nếu cuộc sống là ngớ ngẩn, Lão Tử là ngớ ngẩn; nếu cuộc
sống có logic ngớ ngẩn cho nó, Lão Tử có cùng logic đó cho nó. Lão Tử đơn giản
phản ánh cuộc sống. Ông ấy không thêm điều gì cho nó, ông ấy không chọn ra từ
nó; ông ấy đơn giản chấp nhận bất kì cái gì hiện hữu. Thấy tính tâm
linh của vị phật là đơn giản, rất đơn giản; không thể nào bỏ lỡ nó được, ông ấy
phi thường thế. Nhưng lại khó thấy tính tâm linh của Lão Tử. Ông ấy bình thường
thế, hệt như bạn vậy. Bạn sẽ phải trưởng thành trong hiểu biết. Vị phật đi qua
bạn - bạn sẽ ngay lập tức nhận ra rằng một siêu nhân đã đi qua mình. Ông ấy
mang sức quyến rũ của một siêu nhân quanh mình. Khó mà bỏ lỡ ông ấy, gần như
không thể nào bỏ lỡ ông ấy được. Nhưng Lão Tử… ông ấy có thể là hàng xóm của
bạn đấy. Bạn có thể đã bỏ lỡ ông ấy bởi vì ông ấy bình thường thế, ông ấy bình
thường một cách phi thường thế. Và đó là cái đẹp của nó. Trở thành phi
thường là đơn giản: chỉ cần có nỗ lực, cần rèn luyện, cần trau dồi. Nó là kỉ
luật bên trong sâu sắc. Bạn có thể trở thành rất, rất tinh tuý, một cái gì đó
hoàn toàn phi trần gian, nhưng để là bình thường mới thực là điều phi thường
nhất. Chẳng nỗ lực nào có ích cả - vô nỗ lực mới cần. Không công phu nào có ích
cả, không phương pháp, không phương cách nào sẽ có ích gì ngoài hiểu biết. Ngay
cả thiền cũng sẽ chẳng có ích gì. Để trở thành vị phật, thiền sẽ có ích. Để trở
thành Lão Tử, thậm chí thiền cũng chẳng giúp ích được - chỉ hiểu biết thôi. Chỉ
hiểu biết cuộc sống như nó đang thế, và sống nó với dũng cảm; không trốn chạy
khỏi nó, không che giấu nó, đối mặt với nó với dũng cảm, dù nó là bất kì cái
gì, tốt hay xấu, thiêng liêng hay ác độc, cõi trời hay địa ngục. Rất khó để là
một Lão Tử hay để nhận ra một Lão Tử. Trong thực tế, nếu bạn có thể nhận ra một
Lão Tử, thì bạn đã là một Lão Tử rồi. Để nhận ra vị phật bạn không cần là vị
phật, nhưng để nhận ra Lão Tử bạn cần phải là một Lão Tử - bằng không thì không
thể được. Tương truyền
rằng Khổng Tử tới gặp Lão Tử. Lão Tử là ông già, Khổng Tử trẻ hơn. Lão Tử gần
như vô danh, Khổng Tử gần như ai cũng biết. Vua và hoàng đế hay mời ông ấy vào
triều; những người khôn ngoan hay tới hỏi ý ông ấy. Ông ấy là người khôn ngoan
nhất Trung Quốc thời đó. Nhưng dần dần ông ấy phải đã cảm thấy rằng khôn ngoan
của mình có thể chỉ hữu dụng cho người khác, còn ông ấy không phúc lạc, ông ấy
chẳng đạt được cái gì cả. Ông ấy phải đã trở thành chuyên gia, có thể có ích
cho người khác, nhưng không có ích cho bản thân mình. Thế là ông ấy
bắt đầu việc tìm kiếm bí mật để tìm ra ai đó có thể giúp được ông ấy. Thông
thường người khôn ngoan sẽ không làm điều đó, bởi vì họ quen tới vì lời khuyên
của riêng mình. Các học giả lớn sẽ không làm điều đó; họ quen tới hỏi ông ấy
về vấn đề của họ. Nhưng phải có ai đó ở đâu đó - cuộc sống là bao la.
Ông ấy đã thử việc tìm kiếm bí mật. Ông ấy phái đệ
tử đi tìm ra ai đó có thể có ích cho mình, và họ về với thông tin rằng có một
người sống - chẳng ai biết tên ông ấy cả - ông ấy được biết tới như lão già.
Lão Tử có nghĩa là 'lão già." Từ này không phải là tên của ông ấy, chẳng
ai biết tên của ông ấy cả. Ông ấy là người vô danh tới mức không ai biết ông ấy
sinh ra khi nào, không ai biết ai là bố ông ấy hay ai là mẹ ông ấy. Ông ấy đã
sống chín mươi tuổi nhưng chỉ rất hiếm người mới bắt gặp ông ấy, rất hiếm hoi,
những người có con mắt và cái nhìn khác mà qua đó mà hiểu ông ấy. Ông ấy là con
người hiếm hoi duy nhất - một con người bình thường thế, nhưng là tâm trí con
người hiếm hoi duy nhất Nghe tin rằng
một người được biết là Lão Già tồn tại, Khổng Tử tới gặp ông ấy. Khi ông ấy gặp
Lão Tử, ông ấy có thể cảm thấy rằng đây là con người của hiểu biết vĩ đại, toàn
vẹn trí tuệ vĩ đại, nhạy bén logic vĩ đại, thiên tài. Ông ấy có thể cảm thấy
rằng cái gì đó có đó, nhưng ông ấy không thể nắm bắt được nó. Mơ hồ, bí ẩn, có
cái gì đó; con người này không phải là người thường mặc dầu ông ấy có vẻ hoàn
toàn bình thường. Cái gì đó ẩn kín; ông ấy đang mang kho báu. Khổng Tử hỏi,
"Thầy nói gì về đạo đức? Thầy nói gì về tu dưỡng tính cách tốt?" -
bởi vì ông ấy là nhà đạo đức và ông ấy nghĩ rằng nếu bạn tu dưỡng tính cách tốt
thì đó là thành đạt cao nhất. Lão Tử cười to,
và nói, "Nếu ông vô đạo đức, chỉ thế thì câu hỏi về đạo đức này mới nảy
sinh. Và nếu ông không có tính cách nào, chỉ thế thì ông mới nghĩ tới tính cách.
Con người của tính cách hoàn toàn quên lãng về sự kiện rằng bất kì cái gì như
tính cách tồn tại. Con người của đạo đức không biết từ 'đạo đức' nghĩa là gì.
Cho nên đừng ngu xuẩn! Và đừng cố gắng tu dưỡng. Chỉ tự nhiên." Và con người
này có năng lượng vô biên đến mức Khổng Tử bắt đầu run rẩy. Ông ấy không thể nào
ở lại với Lão Tử. Ông ấy trốn mất. Ông ấy trở nên sợ hãi - như người ta trở nên
sợ hãi khi ở gần vực thẳm. Khi ông ấy quay lại với các đệ tử của mình, những
người vẫn đang đợi bên ngoài dưới gốc cây, các đệ tử không thể nào tin được
điều đó. Con người này đã từng đi tới các đế vương, những quân vương vĩ đại
nhất, và họ chưa bao giờ thấy bất kì hốt hoảng nào trong ông ấy. Còn ông ấy thì
run rẩy, mồ hôi lạnh vã ra, ướt đẫm khắp mình. Họ không thể nào tin được vào
điều đó - điều gì đã xảy ra vậy? Cái tay Lão Tử này đã làm gì thầy của họ? Họ
hỏi ông ta và ông ta nói, "Đợi một chút. Để ta hoàn hồn đã. Con người này
là nguy hiểm." Và về Lão Tử
ông ấy nói cho các đệ tử của mình: "Ta đã nghe nói về những con vật lớn
như con voi, và ta biết cách chúng bước đi. Và ta đã nghe nói về những con vật
ẩn kín trong biển, và ta biết cách chúng bơi. Và ta đã nghe nói về những con
chim lớn bay cao hàng nghìn dặm so với mặt đất, và ta biết cách chúng bay.
Nhưng con người này là rồng. Không ai biết ông ta bước đi thế nào. Không ai biết
ông ta sống thế nào. Không ai biết ông ta bay thế nào. Chớ bao giờ lại gần ông
ấy - ông ấy giống như vực thẳm. Ông ấy giống như cái chết." Và đó là định
nghĩa về thầy: thầy là giống như cái chết. Nếu bạn tới gần thầy, gần nữa, bạn
sẽ cảm thấy sợ, run rẩy sẽ chiếm lĩnh. Bạn sẽ bị nỗi sợ không biết chiếm hữu,
cứ dường như là bạn sắp chết. Tương truyền rằng Khổng Tử chẳng bao giờ tới gặp
ông già này nữa. Lão Tử là bình
thường theo một cách. Và theo cách khác thì ông ấy là người phi thường nhất.
Ông ấy không phi thường như Phật; ông ấy phi thường theo cách hoàn toàn khác. Phi
thường của ông ấy không hiển nhiên thế - nó là kho báu giấu kín. Ông ấy không
kì diệu như Krishna, ông ấy không làm phép mầu nào cả, nhưng toàn bộ hiện hữu
của ông ấy là phép mầu - cách ông ấy bước, cách ông ấy nhìn, cách ông ấy hiện
hữu. Toàn bộ hiện hữu của ông ấy là phép mầu. Ông ấy không
buồn như Jesus; ông ấy không cười, ông ấy có thể cười bụng. Tương truyền rằng
ông ấy sinh ra đã cười rồi. Trẻ con sinh ra thì kêu, khóc. Người ta nói về ông
ấy rằng ông ấy được sinh ra lại cười. Tôi cũng cảm thấy điều đó phải đúng; một
người như Lão Tử sinh ra là phải cười. Ông ấy không buồn như Jesus. Ông ấy có
thể cười, và cười nhiều lắm, nhưng sâu bên dưới trong tiếng cười của ông ấy vẫn
có nỗi buồn, từ bi - nỗi buồn về bạn, về toàn bộ sự tồn tại này. Tiếng cười của
ông ấy không nông cạn. Zarathustra
cười nhưng tiếng cười của ông ấy khác, không có buồn trong nó. Lão Tử buồn như
Jesus mà lại không buồn như Jesus; Lão Tử cười như Zarathustra mà lại không
cười như Zarathustra. Nỗi buồn của ông ấy có tiếng cười của nó và tiếng cười
của ông ấy có nỗi buồn của nó. Ông ấy là sự gặp gỡ của những cái đối lập. Ông
ấy là hài hoà, hoà âm. Nhớ điều này...
tôi không bình luận về ông ấy. Không tồn tại khoảng cách giữa tôi và ông ấy.
Ông ấy đang nói với các bạn qua tôi - một thân thể khác, một cái tên khác, một
hoá thân khác, nhưng cùng tâm linh ấy. Bây giờ chúng
ta sẽ vào lời kinh: Đạo có thể nói ra không là Đạo thường hằng Trước
hết để tôi kể cho bạn câu chuyện về cách những lời kinh này đi tới được viết
ra, bởi vì điều đó sẽ giúp cho bạn hiểu chúng. Trong chín mươi năm Lão Tử sống
- trong thực tế ông ấy đã chẳng làm gì ngoài sống. Ông ấy đã sống một cách toàn
bộ. Nhiều lần đệ tử của ông ấy yêu cầu ông ấy viết, nhưng ông ấy bao giờ cũng
nói: Đạo có thể nói ra được không phải là Đạo thực, chân lí có thể nói ra được trở
thành không đúng ngay lập tức. Cho nên ông ấy sẽ không nói gì cả; ông ấy sẽ
không viết cái gì cả. Thế thì các đệ tử làm gì với ông ấy? Họ chỉ hiện hữu với
ông ấy. Đó tức là satsang là gì - hiện hữu với ông ấy. Họ sống với ông
ấy, họ đi cùng ông ấy, họ đơn giản hấp thu hiện hữu của ông ấy. Hiện hữu gần
ông ấy họ cố gắng không nghĩ về cái gì cả; hiện hữu gần ông ấy họ trở nên ngày
một im lặng hơn. Trong cái im lặng đó ông ấy sẽ đạt tới bạn, ông ấy sẽ tới với
họ và ông ấy sẽ gõ cửa họ. Trong chín mươi
năm ông ấy đã từ chối viết ra bất kì cái gì hay nói bất kì cái gì. Đây là thái
độ cơ bản của ông ấy: rằng chân lí không thể nào dạy được. Khoảnh khắc bạn nói ra
điều gì đó về chân lí, nó không còn đúng nữa: chính việc nói làm sai nó đi. Bạn
không thể dạy về nó được. Nhiều nhất bạn có thể chỉ ra nó, và việc chỉ ra đó
nên là chính sự hiện hữu của bạn, toàn bộ cuộc sống bạn; nó không thể được chỉ
ra bằng lời. Ông ấy chống lại lời; ông ấy chống lại ngôn ngữ. Tương truyền
rằng ông ấy hay đi dạo buổi sáng hàng ngày, và một người hàng xóm hay đi theo
ông ấy. Biết rõ rằng ông ấy không muốn nói, rằng ông ấy là con người của im
lặng tuyệt đối, nên người hàng xóm bao giờ cũng giữ im lặng. Thậm chí cả
"chào" cũng không được phép, thậm chí nói về thời tiết cũng không
được phép. Nói "Buổi sáng đẹp làm sao" sẽ là tán gẫu quá nhiều. Lão
Tử sẽ đi dạo chặng dài, hàng dặm đường, và người hàng xóm sẽ đi theo ông ấy. Trong nhiều năm
điều đó cứ diễn ra, nhưng rồi một lần chuyện xảy ra là một vị khách ở trọ nhà
người hàng xóm nọ và anh ta cũng muốn đi, cho nên người hàng xóm đem anh ta đi.
Anh ta không biết Lão Tử hay cách thức của ông ấy. Anh ta bắt đầu cảm thấy ngột
ngạt bởi vì chủ nhà của anh ta không nói, và anh ta không thể hiểu được tại sao
họ im lặng thế - và im lặng trở thành đè nặng lên anh ta. Nếu bạn không
biết cách im lặng, nó trở thành nặng nề. Không phải là bởi việc nói điều gì đó
mà bạn trao đổi đâu - không. Chính bởi việc nói mọi điều mà bạn làm nhẹ gánh
cho bản thân mình. Trong thực tế, qua lời việc trao đổi là không thể được; chỉ
điều đối lập mới là có thể - bạn có thể tránh trao đổi. Bạn có thể nói, và bạn
có thể tạo ra màn ảnh lời nói quanh mình để cho người khác không thể biết được
tình huống thực của bạn. Bạn che đậy mình bằng lời nói. Người đó bắt
đầu cảm thấy bị trơ trọi, ngột ngạt và vụng về; điều đó gây bối rối. Cho nên
anh ta đơn giản nói, khi mặt trời vừa lên: "Mặt trời đẹp làm sao. Nhìn
kìa...! Mặt trời mới sinh ra đẹp làm sao! Buổi sáng đẹp làm sao!" Đấy là tất cả
mọi điều anh ta đã nói. Nhưng chẳng ai đáp lại bởi vì người hàng xóm, chủ nhà,
đã biết rằng Lão Tử sẽ không thích điều đó. Và tất nhiên Lão Tử sẽ chẳng nói gì
cả, sẽ chẳng đáp lại. Khi họ quay về,
Lão Tử nói với người hàng xóm, "Từ mai đừng đem người này đi theo. Anh ta
là kẻ huyên thuyên." Và anh ta chỉ nói mỗi điều này: "Mặt trời đẹp
làm sao," hay "Buổi sáng đẹp làm sao." Chỉ nhiều chừng ấy trong
việc đi dạo hai hay ba tiếng. Nhưng Lão Tử đã nói, "Đừng đem cái tay huyên
thuyên này lần nữa đi với anh. Anh ta nói quá nhiều, toàn nói điều vô dụng -
bởi vì ta cũng có mắt, ta có thể thấy rằng mặt trời đang được sinh ra và nó là
đẹp. Cần gì phải nói ra điều đó?" Lão Tử đã sống
trong im lặng. Ông ấy bao giờ cũng tránh nói về chân lí mà ông ấy đã đạt tới và
ông ấy bao giờ cũng bác bỏ ý tưởng rằng ông ấy nên viết nó ra cho các thế hệ
sau. Vào độ tuổi
chín mươi ông ấy rời bỏ các đệ tử của mình. Ông ấy nói lời tạm biệt với họ, và
ông ấy nói, "Bây giờ ta đi lên núi, lên Himalayas. Ta đi tới đó để sẵn
sàng chết. Sống với mọi người là tốt, sống trong thế giới là tốt khi người ta
còn sống, nhưng khi người ta đã gần đất xa trời thì đi vào trong đơn độc hoàn
toàn cũng là tốt, để cho người ta đi về cội nguồn nguyên thuỷ trong sự thuần
khiết và cô đơn hoàn toàn, không bị thế giới làm nhiễm bẩn." Các đệ tử cảm
thấy rất, rất buồn, nhưng họ có thể làm được gì? Họ theo ông ấy vài trăm dặm,
nhưng dần dần Lão Tử khuyên nhủ họ trở về. Thế rồi một mình ông ấy đi qua biên
giới, và lính gác biên giới bắt ông ấy bỏ tù. Người lính này cũng là một đệ tử.
Và người lính gác nói: "Chừng nào thầy chưa viết ra cuốn sách, tôi sẽ
không cho phép thầy qua biên giới. Nhiều nhất điều này thầy phải làm cho nhân
loại chứ. Viết ra cuốn sách đi. Đó là món nợ mà thầy phải trả, bằng không tôi
sẽ không cho phép thầy đi qua đâu." Thế là trong ba ngày Lão Tử đã bị đệ
tử của mình bắt vào tù. Chuyện thật
hay. Thật là rất đáng yêu. Ông ấy bị bắt buộc - và đó là cách thức cuốn sách
nhỏ này, sách của Lão Tử, Đạo Đức Kinh, đã được ra đời. Ông ấy phải viết
ra nó, bởi vì đệ tử này sẽ không cho phép ông ấy đi qua biên giới. Và anh ta là
lính gác và anh ta có quyền, anh ta có thể tạo ra rắc rối, cho nên Lão Tử đã
phải viết ra cuốn sách này. Trong ba ngày ông ấy đã hoàn thành nó. Đây là câu đầu
tiên của cuốn sách: Đạo có thể nói ra không là Đạo thường hằng Đây
là điều đầu tiên ông ấy phải nói: rằng bất kì cái gì có thể được nói ra đều
không thể đúng được. Đây là phần giới thiệu cho cuốn sách. Nó đơn giản làm cho
bạn tỉnh táo: bây giờ lời sẽ tiếp theo, chớ trở thành nạn nhân của lời. Nhớ lấy
cái vô lời. Nhớ cái không thể được truyền trao qua ngôn ngữ, qua lời. Đạo có
thể được truyền trao, nhưng nó chỉ có thể được truyền trao từ hiện hữu sang
hiện hữu. Nó có thể được truyền trao khi bạn hiện hữu cùng thầy, không làm gì
cả, thậm chí không thực hành điều gì. Chỉ hiện hữu với thầy điều đó có thể được
truyền trao. Tại sao chân lí
không thể được nói ra? Khó khăn là gì? Chân lí không thể được nói ra bởi nhiều
lí do. Lí do đầu tiên và cơ bản nhất là: chân lí bao giờ cũng được nhận ra
trong im lặng. Khi việc nói bên trong của bạn đã chấm dứt, thế thì nó được nhận
ra. Và cái mà bạn nhận ra trong im lặng, làm sao bạn có thể nói nó qua âm thanh
được? Nó là kinh nghiệm. Nó không phải là ý nghĩ. Nếu nó là ý nghĩ thì nó có
thể được diễn đạt, sẽ không có rắc rối trong nó. Dù ý nghĩ có tinh vi hay phức
tạp đến đâu, người ta vẫn có thể tìm ra cách để diễn đạt nó. Lí thuyết phức tạp
nhất của Albert Einstein, lí thuyết tương đối, cũng có thể được diễn đạt theo
kí hiệu. Không có vấn đề gì về điều đó cả. Người nghe có thể không có khả năng
hiểu nó; đấy không phải là vấn đề. Nó có thể được diễn đạt. Người ta nói
rằng khi Einstein còn sống chỉ mười hai người, một tá, trên toàn thế giới là
hiểu ông ấy và điều ông ấy nói. Nhưng thậm chí điều đó là đủ. Nếu thậm chí một
người có thể hiểu được, thì nó đã được diễn đạt. Và cho dù một người không thể
hiểu được ngay bây giờ, thì có thể sau nhiều thế kỉ sẽ có một người có thể hiểu
nó. Thế nữa nó cũng đã được diễn đạt. Chính khả năng rằng ai đó có thể hiểu
được nó, và nó đã được diễn đạt. Nhưng chân lí không
thể nào được diễn đạt bởi vì chính việc đạt tới nó là thông qua im lặng, vô âm
thanh, vô ý nghĩ. Bạn đạt tới nó qua vô trí, tâm trí bị vứt bỏ. Và làm sao bạn
có thể dùng cái gì đó như một điều kiện phải bị vứt bỏ trước khi chân lí có thể
được đạt tới? Tâm trí không thể nào hiểu nổi, tâm trí không thể nào nhận ra
được, làm sao tâm trí có thể diễn đạt được? Nhớ điều đó như qui tắc: nếu tâm
trí có thể đạt tới, tâm trí có thể diễn đạt; nếu tâm trí không thể đạt tới được
nó, tâm trí không thể diễn đạt được nó. Tất cả các ngôn ngữ đều vô tích sự.
Chân lí không thể nào được diễn đạt. Thế thì tất cả
các kinh sách để làm gì? Thế thì Lão Tử đang làm gì? Thế thì Upanishad đang làm
gì? Tất cả chúng đều cố gắng nói điều gì đó không thể nào được nói với hi vọng
rằng ham muốn có thể nảy sinh trong bạn để biết về nó. Chân lí không thể nào
được nói nhưng trong chính nỗ lực để nói nó, ham muốn có thể nảy sinh trong
người nghe để biết cái không thể nào được diễn đạt đó. Cơn khát có thể được gợi
ra. Cơn khát có đó, nó cần chút ít khêu gợi. Bạn đã khát rồi - làm sao nó có
thể khác được? Bạn không phúc lạc, bạn không cực lạc - bạn đang khát. Trái tim
bạn là ngọn lửa bùng cháy. Bạn đang tìm kiếm cái gì đó có thể làm dịu đi cơn
khát này, nhưng không tìm thấy nước, không tìm thấy suối nước, dần dần bạn đã
cố gắng kìm nén bản thân cơn khát của mình. Đó là cách duy nhất, bằng không thì
nó quá nhiều, nó sẽ không cho phép bạn sống chút nào. Cho nên bạn kìm nén cơn
khát. Một bậc thầy
như Lão Tử biết rõ rằng chân lí không thể nào được nói ra, nhưng chính nỗ lực
để nói nó sẽ gợi ra cái gì đó, sẽ đem cơn khát đang bị kìm nén trong bạn lên bề
mặt. Và một khi cơn khát này trồi lên bề mặt, thì việc tìm kiếm, việc truy tìm
bắt đầu. Và ông ấy đã làm bạn chuyển động. Đạo có thể nói ra không là Đạo thường hằng Nhiều
nhất nó có thể là tương đối. Chẳng hạn,
chúng ta có thể nói điều gì đó về ánh sáng cho người mù, vẫn biết rõ rằng không
thể trao đổi được gì về ánh sáng cả bởi vì người đó không có kinh nghiệm về
điều đó. Nhưng cái gì đó có thể được nói về ánh sáng - lí thuyết về ánh sáng có
thể được tạo ra. Thậm chí người mù có thể trở thành chuyên gia về lí thuyết ánh
sáng; với toàn bộ khoa học về ánh sáng người đó có thể là chuyên gia - không có
vấn đề gì trong đó cả - nhưng người đó vẫn sẽ không hiểu ánh sáng là gì. Người
đó sẽ hiểu ánh sáng bao gồm cái gì. Người đó sẽ hiểu vật lí của ánh sáng, hoá
học của ánh sáng, người đó sẽ hiểu thơ ca của ánh sáng, nhưng người đó sẽ không
hiểu tính sự kiện của ánh sáng, ánh sáng là gì. Kinh nghiệm về ánh sáng người
đó sẽ không hiểu. Cho nên tất cả những điều được nói với người mù về ánh sáng
chỉ là tương đối: nó là cái gì đó về ánh sáng, không phải là bản thân ánh sáng.
Ánh sáng không thể nào được trao đổi. Điều gì đó có
thể được nói về Thượng đế, nhưng Thượng đế lại không thể được nói ra; điều gì
đó có thể được nói về tình yêu, nhưng tình yêu không thể được nói ra; rằng
"cái gì đó" vẫn còn là tương đối. Nó vẫn còn mang tính tương đối cho
người nghe, hiểu của người đó, nắm bắt trí tuệ của người đó, ước định của người
đó, ham muốn của người đó để hiểu. Nó là phụ thuộc vào, nó là tương đối với
thầy: cách diễn đạt của thầy, phương cách của thầy để trao đổi. Nó vẫn còn tương
đối - tương đối với nhiều điều - nhưng nó không bao giờ có thể trở thành kinh
nghiệm tuyệt đối được. Đây là lí do thứ nhất mà chân lí không thể nào được diễn
đạt. Lí do thứ hai
mà chân lí không thể nào được diễn đạt là bởi vì nó là kinh nghiệm. Không kinh
nghiệm nào có thể được trao đổi cả… gạt chân lí sang một bên. Nếu bạn chưa bao
giờ biết đến yêu, khi ai đó nói điều gì đó về tình yêu, bạn sẽ nghe lời đấy
nhưng bạn sẽ bỏ lỡ nghĩa. Lời là trong từ điển. Cho dù bạn không hiểu, bạn vẫn
có thể nhìn vào trong từ điển và bạn sẽ biết nó là gì. Nhưng nghĩa là ở bên
trong bạn. Nghĩa tới qua kinh nghiệm. Nếu bạn đã yêu ai đó thế thì bạn biết
nghĩa của từ "yêu." Nghĩa đen là trong từ điển, trong ngôn ngữ, trong
văn phạm. Nhưng nghĩa theo kinh nghiệm, nghĩa theo sự tồn tại là ở trong bạn.
Nếu bạn đã biết tới kinh nghiệm đó, ngay lập tức từ "yêu" không còn
trống rỗng nữa; nó chứa cái gì đó. Nếu tôi nói điều gì đó, nó là trống rỗng
chừng nào bạn chưa đem kinh nghiệm của bạn vào cho nó. Khi kinh nghiệm của bạn
đi tới nó, nó trở thành có ý nghĩa; bằng không nó vẫn còn trống rỗng - lời và
lời và lời. Làm sao chân lí
có thể được diễn đạt khi bạn còn chưa kinh nghiệm nó? Thậm chí trong cuộc sống
bình thường một điều chưa kinh nghiệm cũng không thể nào được nói ra. Chỉ lời sẽ
được chuyển tải. Bình chứa sẽ đạt tới bạn nhưng nội dung sẽ bị mất. Lời trống
rỗng sẽ đi tới bạn; bạn sẽ nghe nó và bạn sẽ nghĩ bạn hiểu nó bởi vì bạn biết
nghĩa đen của nó, nhưng bạn sẽ lỡ. Nghĩa thực, đích thực tới qua kinh nghiệm
tồn tại. Bạn phải biết nó, không có cách khác. Không có lối tắt. Chân lí không
thể nào được truyền trao. Bạn không thể đánh cắp nó, bạn không thể vay mượn nó,
bạn không thể mua nó, bạn không thể cầu xin nó - không có cách nào. Chừng nào
bạn còn chưa có nó, bạn không thể có nó được. Vậy nên cái gì có thể được làm? Cách duy
nhất - và tôi nhấn mạnh vào nó - cách duy nhất là sống với ai đó,
người đã đạt tới kinh nghiệm này. Chỉ hiện hữu trong sự hiện diện của ai đó đã
đạt tới kinh nghiệm này, cái gì đó bí ẩn sẽ được truyền sang cho bạn… không
phải bằng lời - nó là cái nhảy của năng lượng. Hệt như ngọn lửa có thể nhảy từ
ngọn đèn đang thắp sáng sang ngọn đèn chưa thắp sáng - bạn đem ngọn đèn chưa
thắp tới gần hơn với ngọn đèn đã thắp, và ngọn lửa có thể nhảy qua - cùng điều
đó xảy ra giữa thầy và đệ tử: truyền trao bên ngoài kinh sách - truyền trao của
năng lượng không thông báo, truyền trao của cuộc sống không lời. Đạo có thể nói ra không là Đạo thường hằng Nhớ
lấy điều kiện này. Bây giờ chúng
ta đi vào lời kinh: Thiên hạ đều biết tốt là tốt, Thì đã có xấu rồi; Đều biết lành là lành Thì đã có cái chẳng lành rồi Lão
Tử là người vô chính phủ hoàn toàn. Ông ấy nói: Khoảnh khắc bạn bắt đầu nghĩ
tới trật tự, vô trật tự nảy sinh. Khoảnh khắc bạn nghĩ tới Thượng đế, quỉ đã
hiện diện ở đó rồi - bởi vì suy nghĩ chỉ có thể về các điều đối lập; suy nghĩ
chỉ có thể về nhị nguyên. Suy nghĩ có phân đôi sâu sắc trong nó, suy nghĩ là
phân liệt, nó là hiện tượng chia chẻ. Đó là lí do tại sao lại có nhiều nhấn
mạnh thế vào việc đạt tới trạng thái vô suy nghĩ - bởi vì chỉ thế thì bạn mới
là một. Bằng không bạn sẽ vẫn còn là hai, bị phân chia, chia chẻ, phân liệt Tại phương Tây
bệnh phân liệt đã dần dần trở nên ngày một thông thường, bởi vì tất cả mọi tôn
giáo phương Tây sâu bên dưới đều là phân liệt; họ phân chia. Họ nói Thượng đế
là tốt. Thế thì tất cả mọi cái ác xếp vào đâu? Thượng đế đơn giản là tốt và ngài
không thể là xấu được, và có nhiều cái xấu trong cuộc sống thế - nhét những cái
xấu đó vào đâu? Thế là quỉ được tạo ra. Khoảnh khắc bạn tạo ra thượng đế, ngay
lập tức bạn tạo ra quỉ. Tôi phải bảo bạn - Lão Tử chưa bao giờ nói về Thượng đế
cả, chưa bao giờ. Thậm chí không có lấy một một lúc nào ông ấy dùng từ
"thượng đế," bởi vì một khi bạn dùng từ "thượng đế", quỉ
lập tức đi vào theo cùng cửa. Bạn mở cửa ra - họ cả hai cùng vào. Suy nghĩ bao
giờ cũng trong các cái đối lập. Thiên hạ đều biết tốt là tốt, Thì đã có xấu rồi; Thế
giới này sẽ đẹp khi mọi người đã quên mất về cái đẹp, bởi vì thế thì sẽ không
có cái xấu. Thế giới sẽ đạo đức khi mọi người đã quên mất hoàn toàn từ
"đạo đức," bởi vì thế thì sẽ không có vô đạo đức. Thế giới sẽ trong
trật tự khi không có ai áp đặt nó, không ai cố gắng tạo ra trật tự. Tất cả
những người cố gắng tạo ra trật tự đều là kẻ gây bất hoà - họ tạo ra mất trật
tự. Nhưng cũng khó để hiểu. Nó khó bởi vì toàn bộ tâm trí chúng ta đã từng được
ước định, được ước định bởi các nhà tư tưởng phân liệt. Họ nói: Chọn Thượng đế
và bác bỏ quỉ; hãy tốt, đừng xấu. Và bạn càng cố gắng để tốt bạn càng cảm thấy
cái xấu của mình ở bên trong. Bạn đã bao giờ
quan sát rằng những thánh nhân, người đang cố gắng để tuyệt đối đức hạnh, cũng
ý thức về tội lỗi của họ không? Thế thì đọc cuốn Thú tội của Augustine.
Toàn bộ kiếp sống của một thánh nhân, thế rồi nảy sinh thừa nhận về tội lỗi.
Bạn càng cố gắng để là thánh nhân, bạn sẽ càng cảm thấy mình bị tội lỗi vây
quanh. Cố gắng là tốt và bạn sẽ cảm thấy mình xấu làm sao. Cố gắng để đáng yêu
và bạn sẽ bắt gặp hận thù, giận dữ, ghen tị, sở hữu. Cố gắng để đẹp và bạn sẽ
trở nên ngày càng nhận biết mình xấu thế nào. Vứt bỏ phân đôi
đó đi. Vứt bỏ thái độ phân liệt đi. Đơn giản thôi. Và khi bạn đơn giản, bạn
không biết mình là ai - đẹp hay xấu. Có một câu
chuyện Sufi: Một bậc thầy
đang du hành, và ông ấy vào một nhà trọ để nghỉ qua đêm với các đệ tử của mình.
Chủ quán trọ bảo ông ấy rằng mình có hai vợ, một đẹp và một xấu. "Nhưng vấn
đề là ở chỗ," ông chủ quán trọ nói, "tôi yêu người xấu và ghét người
đẹp." Vị thầy hỏi,
"Có vấn đề gì? Lí do cho điều đó là gì?" Người này nói,
"Người đẹp quá ý thức tới sắc đẹp của mình; điều đó làm cho cô ấy thành
xấu... còn người kia lại quá ý thức về cái xấu của mình. Điều đó làm cho cô ấy
thành đẹp." Người đẹp cứ
nghĩ liên tục rằng mình đẹp - cô ấy trở nên kiêu căng, ngạo mạn. Làm sao bạn có
thể đẹp với kiêu ngạo được? Kiêu ngạo là xấu. Cô ấy trở nên rất bản ngã. Và bạn
đã bao giờ bắt gặp bất kì bản ngã nào đẹp không? Làm sao bản ngã có thể đẹp
được? Người kia, người xấu, ý thức về cái xấu của mình, đã trở nên khiêm tốn,
và khiêm tốn có cái đẹp của riêng nó. Khiêm tốn, không tự cao gì, không bản ngã
nào, tạo ra cái đẹp. Cho nên người
này nói, "Tôi phân vân. Tôi yêu người xấu và tôi ghét người đẹp. Và tôi
xin hỏi ông cách giải quyết phân vân này. Vấn đề là gì? Tại sao nó xảy
ra?" Thầy gọi các đệ
tử lại và nói, "Các ông lại đây, bởi vì đây là điều gì đó thực sự cần được
hiểu." Và ông ấy nói
đúng điều Lão Tử đang nói. Với đệ tử của mình ông ấy cũng nói, "Đừng tự
hào rằng các ông biết. Nếu ông biết rằng mình biết, ông là dốt nát. Nếu ông
biết rằng ông không biết, thì ông là người trí huệ. Người tuyệt đối đơn giản
không biết cả hai đằng, liệu mình biết hay không biết. Người đó sống hoàn toàn
không tự ý thức về mình." Bây giờ, tôi
muốn kéo dài câu chuyện này ra một chút ít. Nó kết thúc ở đó. Như người Sufis
đã kể nó, thì nó kết thúc ở đó, nhưng tôi sẽ cho nó một điểm đổi hướng sâu hơn.
Tôi muốn kể cho bạn rằng sau cuộc viếng thăm của vị thầy này, tôi cũng tới thăm
quán trọ đó, tất nhiên là nhiều năm sau. Và người này, ông chủ quán trọ, tới
tôi và nói, "Vẫn còn phân vân. Có lần một thầy Sufi đã tới thăm tôi và tôi
đã nêu vấn đề này ra cho ông ấy và ông ấy đã giải quyết nó. Nhưng từ đó mọi sự
đã đổi hướng. Người phụ nữ xấu đã trở nên tự cao về tính khiêm tốn của mình, và
bây giờ tôi lại không yêu cô ấy. Bây giờ không chỉ thân thể cô ấy xấu, bây giờ
con người cô ấy, toàn bộ con người cô ấy đã trở nên xấu. Còn người phụ nữ đẹp
kia, biết rằng cái ý thức là mình đẹp đã phá huỷ cái đẹp của mình, đã bỏ ý thức
ấy. Bây giờ tôi yêu cô ấy. Bây giờ không chỉ thân thể cô ấy đẹp, cả con người
của cô ấy cũng trở nên đẹp nữa." Cho nên ông ta nói với tôi, "Bây giờ
thầy bảo tôi vấn đề là gì. " Nhưng tôi bảo
ông ta, "Xin ông giữ tĩnh lặng. Nếu tôi nói điều gì đó, thế thì lần nữa,
câu chuyện sẽ đổi hướng. Giữ tĩnh lặng!" Tự ý thức là
bệnh tật; trong thực tế, không tự ý thức là trở nên hiểu ra. Đó là điều chứng
ngộ tất cả là gì: là không tự ý thức. Nhưng giữa phân đôi này, giữa cái hai
này, giữa cái khó xử này, làm sao bạn có thể không tự ý thức được? Bạn bao giờ
cũng chọn lựa: bạn chọn cái đẹp và cái xấu trở thành cái bóng của bạn; bạn chọn
tính tôn giáo và tính phi tôn giáo trở thành cái bóng của bạn; bạn chọn là
thánh thiện và tội lỗi trở thành cái bóng của bạn. Chọn - và bạn sẽ trong khó
khăn, bởi vì chính việc chọn đó đã phân chia cuộc sống. Đừng chọn, vô chọn lựa
thôi, để cho cuộc sống tuôn chảy. Đôi khi nó có vẻ giống Thượng đế, đôi khi nó
có vẻ giống quỉ - cả hai đều đẹp. Đừng chọn. Đừng cố gắng là thánh nhân; bằng
không tính thánh thiện của bạn sẽ không thực là thánh thiện - tự hào trong nó
sẽ làm mọi sự thành xấu. Cho nên tôi nói rằng nhiều lần tội nhân đã đạt tới
điều thiêng liêng còn thánh nhân đã bỏ lỡ. Bởi vì tội nhân bao giờ cũng khiêm
tốn; suy nghĩ về bản thân tội nhân, họ không thể công bố lên được. Tôi sẽ kể cho
bạn một câu chuyện khác. Có lần chuyện
xảy ra: một thánh nhân gõ cửa Thiên đường, và đồng thời, ở ngay bên cạnh ông
ta, một tội nhân cũng gõ cửa. Và thánh nhân này biết rõ tội nhân này lắm. Ông
ta đã là láng giềng của ông này, trong cùng thành phố, và họ đã chết cùng ngày. Cánh cửa mở ra.
Người coi cổng, Thánh Peter, thậm chí chẳng thèm nhìn vào vị thánh. Ông ấy đón
chào kẻ tội nhân. Vị thánh bị xúc phạm. Điều này là không được tính trước, rằng
kẻ tội nhân lại được đón chào. Ông ấy hỏi
Thánh Peter, "Có chuyện gì vậy? Ông xúc phạm tôi. Ông sỉ nhục tôi. Sao tôi
lại không được nhận vào khi kẻ tội nhân kia lại được đón nhận với sự đón mừng
như vậy?" Thánh Peter
nói, "Đấy là lí do tại sao. Ông trông đợi. Ông ấy không trông đợi. Ông ấy
đơn giản cảm thấy biết ơn rằng ông ấy đã lên cõi trời. Ông cảm thấy rằng ông đã
kiếm được nó. Ông ấy cảm thấy biết ơn Thượng đế, còn ông thì nghĩ rằng đấy là
vì nỗ lực của ông mà ông đã đạt tới nó. Nó là thành tựu với ông, và mọi thành
tựu đều là của bản ngã. Ông ấy khiêm tốn. Ông ấy không thể tin được rằng ông ấy
đã lên đến cõi trời." Có thể là tội
nhân đạt tới còn thánh nhân có thể lỡ. Nếu thánh nhân quá tràn đầy với tính
thánh thiện của mình, người đó sẽ lỡ. Lão Tử nói: Thiên hạ đều biết tốt là tốt, Thì đã có xấu rồi; Đều biết lành là lành Thì đã có cái chẳng lành rồi Bởi vậy: Có và không cùng sinh… Dùng
cả hai - đừng chọn lựa. Cuộc sống là phụ thuộc lẫn nhau. Dùng cả tội lỗi nữa,
nó tồn tại đó vì một mục đích; bằng không nó sẽ không tồn tại. Dùng giận dữ
nữa, nó tồn tại đó vì một mục đích; bằng không nó sẽ không tồn tại. Chẳng cái
gì tồn tại mà không có mục đích nào. Làm sao nó có thể tồn tại mà không có mục
đích nào được? Cuộc sống không phải là hỗn độn, nó là hài hoà có nghĩa. Có và không cùng sinh, - cho nên có
và không cùng nhau - Khó và dễ cùng thành, Dài và ngắn cùng chiều, Cao và thấp cùng nhau, Giọng và tiếng cùng hoạ, Trước và sau cùng theo Lão
Tử đang nói rằng các cái đối lập không thực sự là đối lập mà là phần bù cho
nhau. Đừng phân chia chúng, phân chia là sai; chúng là một, chúng phụ thuộc lẫn
nhau. Làm sao yêu có thể tồn tại mà không ghét? Làm sao từ bi có thể tồn tại mà
không giận dữ? Làm sao sống có thể tồn tại mà không có chết? Làm sao hạnh phúc
có thể tồn tại mà không có bất hạnh? Làm sao cõi trời có thể có mà không có địa
ngục? Địa ngục
không chống lại cõi trời, chúng là bù cho nhau, chúng tồn tại cùng nhau; trong
thực tế, chúng là hai mặt của cùng một đồng tiền. Đừng chọn lựa. Tận hưởng cả
hai. Cho phép cả hai có đó. Tạo ra hài hoà giữa cả hai; đừng chọn lựa. Thế thì
cuộc sống của bạn sẽ trở thành hoà âm của các cái đối lập, và đó là khả năng
lớn nhất của cuộc sống. Nó sẽ là bình thường nhất theo cách này, và phi thường
nhất theo cách khác. Đó là lí do
tại sao tôi nói Phật đi vào trời, ông ấy không có phần đất trong mình. Lão Tử
là cả hai, đất và trời cùng nhau. Phật, ngay cả trong hoàn hảo của ông ấy cũng
dường như không đầy đủ; Lão Tử, ngay cả trong sự không đầy đủ của ông ấy cũng
vẫn đầy đủ, hoàn hảo. Bạn có hiểu
tôi không? Cố gắng tìm vào nó! Phật trong
sự hoàn hảo của mình vẫn là không hoàn hảo, phần đất bị mất. Ông ấy không có
phần đất như ma vậy, phần thân thể bị bỏ lỡ; ông ấy vô thân thể, cái cây không
rễ. Bạn có rễ,
nhưng chỉ rễ thôi; nó còn chưa mọc cây, cây còn chưa tới độ nở hoa. Phật chỉ là
hoa, còn bạn chỉ là rễ - Lão Tử là cả hai. Ông ấy có thể trông không hoàn hảo
như Phật, ông ấy không thể thế được, bởi vì cái kia bao giờ cũng có đấy - làm
sao ông ấy có thể hoàn hảo được? Nhưng ông ấy đầy đủ. Ông ấy là toàn bộ. Ông ấy
có thể không hoàn hảo nhưng ông ấy toàn bộ. Và hai từ này bao giờ cũng phải
được ghi nhớ: đừng cố là hoàn hảo, hãy cố là toàn bộ. Nếu bạn cố gắng là hoàn
hảo, bạn sẽ theo Phật, bạn sẽ theo Mahavira, bạn sẽ theo Jesus. Nếu bạn cố gắng
là toàn bộ, chỉ thế thì bạn mới có thể có cảm giác về điều được ngụ ý khi ở gần
Lão Tử, điều được ngụ ý khi theo Đạo. Đạo là tính
toàn bộ. Tính toàn bộ là không hoàn hảo, nó bao giờ cũng bất toàn - bởi vì nó
bao giờ cũng sống. Hoàn hảo bao giờ cũng chết - bất kì cái gì trở nên hoàn hảo
đều chết cả. Làm sao nó có thể sống được? Làm sao nó có thể sống khi nó đã trở
thành hoàn hảo? - nó không có nhu cầu sống. Nó chối bỏ phần kia. Cuộc sống
tồn tại thông qua co kéo của các cái đối lập, gặp gỡ của các cái đối lập. Nếu
bạn chối bỏ cái đối lập, bạn có thể trở nên hoàn hảo nhưng bạn sẽ không toàn
bộ, bạn sẽ bỏ lỡ cái gì đó. Dù Phật có đẹp đến đâu, ông ấy vẫn bỏ lỡ cái gì đó.
Lão Tử không đẹp đến thế, không hoàn hảo đến thế. Phật và Lão
Tử cả hai đứng trước bạn; Lão Tử sẽ trông bình thường còn Phật thì phi thường,
siêu phàm. Nhưng tôi bảo bạn: hàng nghìn vị phật có trong Lão Tử. Ông ấy bắt rễ
sâu trong đất - ông ấy bắt rễ vào đất, và ông ấy đứng cao trên trời; ông ấy là
cả hai, trời và đất, hội ngộ của các cái đối lập. Có ba từ cần
nhớ: một là phụ thuộc, từ nữa là độc lập và từ thứ ba là tương thuộc. Phật là độc
lập. Bạn là phụ thuộc: chồng phụ thuộc vợ, bố phụ thuộc con, cá nhân phụ thuộc
xã hội - hàng nghìn sự phụ thuộc. Bạn là phụ thuộc. Vị phật đứng như đỉnh cao -
độc lập. Ông ấy đã cắt hết mọi mối dây buộc với thế giới này: với vợ, với con,
với bố - mọi thứ ông ấy đều cắt bỏ. Ông ấy đã từ bỏ tất cả - cây cột trụ độc
lập. Bạn là một phần; phật là một phần, phần khác. Bạn có thể xấu - ông ấy đẹp.
Nhưng cái đẹp của ông ấy chỉ tồn tại bởi vì cái xấu của bạn. Nếu bạn biến mất
thì vị phật cũng sẽ biến mất. Ông ấy trông trí huệ bởi vì ngu xuẩn của bạn; nếu
bạn trở nên trí huệ thì ông ấy sẽ không còn trí huệ nữa. Lão Tử là
hiện tượng tương thuộc - bởi vì cuộc sống là tương thuộc. Bạn không thể phụ
thuộc, bạn không thể độc lập - cả hai đều là cực đoan. Chỉ ở chính giữa, nơi
cuộc sống là quân bình, mới là tương thuộc. Mọi thứ đều tồn tại với các thứ
khác, mọi thứ đều tương thuộc. Làm đau một đoá hoa và bạn làm đau cả vì sao.
Mọi thứ đều tương thuộc, không cái gì tồn tại như hòn đảo cả. Nếu bạn cố gắng
tồn tại như một hòn đảo - điều đó là có thể, nhưng điều đó sẽ là hiện tượng
siêu nhiên, gần như huyền thoại, giấc mơ. Lão Tử tin vào tương thuộc. Ông ấy
nói: Coi mọi thứ như nó đang thế, đừng chọn lựa. Điều đó
dường như đơn giản vậy mà lại là điều khó nhất, bởi vì tâm trí bao giờ cũng
muốn chọn lựa. Tâm trí sống qua chọn lựa. Nếu bạn không chọn lựa, tâm trí bị
loại bỏ. Đây là cách thức của Lão Tử. Làm sao loại bỏ tâm trí? - đừng chọn lựa!
Đó là lí do tại sao ông ấy lại chưa bao giờ mô tả bất kì cách thiền nào, bởi vì
thế thì không có nhu cầu về bất kì cách thiền nào. Đừng chọn
lựa, sống cuộc sống khi nó tới - nổi thôi. Đừng làm bất kì nỗ lực nào để đạt
tới bất kì đâu. Đừng đi tới mục đích; tận hưởng khoảnh khắc này trong tính toàn
bộ của nó và đừng bị bận tâm bởi tương lai hay quá khứ. Thế thì hoà âm nảy sinh
trong linh hồn bạn, cái thấp nhất và cái cao nhất gặp gỡ trong bạn, và thế thì
- thế thì bạn có giàu có. Nếu bạn chỉ
là cái cao nhất, bạn vẫn nghèo, bởi vì bạn giống như đồi núi không có thung
lũng: nó là đồi núi nghèo nàn. Thung lũng cho chiều sâu và thung lũng cho điều
bí ẩn; trong thung lũng chính tính thơ ca trú ngụ. Đỉnh cao là số học; nó là
phẳng. Trong thung lũng các hình bóng, các bí ẩn chuyển động. Không có thung
lũng, đỉnh cao là nghèo nàn, và không có đỉnh cao, thung lũng là nghèo nàn, bởi
vì thế thì chỉ có bóng tối. Mặt trời chưa bao giờ tới thăm nó; nó là tăm tối và
ảm đạm và buồn bã. Khả năng phong phú nhất là vừa là đỉnh cao vừa là thung
lũng. Đâu đó
Nietzsche nói.... Nietzsche có một trong những tâm trí minh mẫn nhất mà chưa
con người nào đã từng sở hữu. Bởi vì minh mẫn đó mà ông ấy trở nên điên; nó là
quá nhiều, tâm trí quá nhiều, ông ấy không thể nào chứa đựng được nó. Ông ấy
nói rằng cây muốn đạt tới trời thì phải đi vào đất sâu nhất. Cái rễ phải đi tới
chính địa ngục, sâu bên dưới; chỉ thế thì các cành, ngọn cây mới có thể vươn
tới cõi trời. Cây sẽ phải chạm tới cả hai: địa ngục và cõi trời, cả chiều cao
và chiều sâu. Và cùng điều
đó cũng đúng cho sự hiện hữu của con người: bằng cách nào đó bạn phải gặp quỉ
và điều thiêng liêng cả hai trong cốt lõi bên trong nhất của sự hiện hữu. Đừng
sợ quỉ, bằng không Thượng đế của bạn sẽ là Thượng đế nghèo nàn hơn. Thượng đế
của người Ki tô giáo hay người Do Thái giáo rất nghèo nàn, Thượng đế của người Ki
tô giáo hay Do Thái giáo hay Mô ha mét giáo không có vị mặn trong nó, vô vị,
bởi vì vị mặn đã bị vứt đi... vị mặn đã trở thành quỉ. Chúng phải trở thành
một. Một thể thống nhất hữu cơ tồn tại trong sự tồn tại giữa các cái đối lập:
hiện hữu và không hiện hữu, khó và dễ, dài và ngắn, cao và thấp. Giọng và tiếng cùng hoạ, Trước và sau cùng theo Vậy nên hiền nhân: Dùng vô vi mà xử sự… Đây
là điều Lão Tử gọi là vô vi: hiền nhân xử trí mọi sự mà không hành động. Có các
khả năng - một: trong hành động mà quên mất vô hành động. Bạn sẽ là người thế
giới này. Khả năng thứ hai: vứt bỏ hành động, đi lên Himalayas và vẫn còn vô
hành động. Bạn sẽ là người thế giới khác. Khả năng thứ ba: sống trong bãi chợ
nhưng không cho phép chợ sống trong bạn. Hoạt động mà không trong trạng thái hoạt
động, di chuyển nhưng vẫn còn bất động bên trong. Tôi đang nói
với bạn và có im lặng bên trong tôi - tôi đang nói và không nói cùng nhau. Di
chuyển mà không di chuyển. Hành động mà không hành động. Nếu vô hành động và
hành động có thể gặp nhau, thế thì hài hoà nảy sinh. Thế thì bạn trở thành một
hiện tượng đẹp - không đẹp chống lại xấu, mà đẹp bao hàm cả xấu nữa. Tới bụi hồng. Thấy
hoa và gai. Nhưng gai đó không chống lại hoa, chúng bảo vệ nó. Chúng canh gác quanh hoa: an
ninh, biện pháp an toàn. Trong một người đẹp thực sự, trong người hài hoà thực
sự, không cái gì bị bác bỏ cả. Bác bỏ là chống lại sự tồn tại. Mọi thứ nên được
hấp thu. Đó là nghệ thuật. Nếu bạn bác bỏ, điều đó chỉ ra bạn không phải là
nghệ sĩ. Mọi thứ nên được hấp thu, được dùng. Nếu có đá trên đường, đừng cố
gắng bác bỏ nó, dùng nó làm bậc thang đá bước lên. Vậy nên hiền nhân: Dùng vô vi mà xử sự… Ông
ấy không trốn lên Himalayas. Ông ấy vẫn còn trong thế giới này. Ông ấy xử sự
nhưng không có hành động nào. Ông ấy không tích cực bên trong, hành động vẫn
còn ở bên ngoài. Tại trung tâm ông ấy vẫn còn bất hoạt. Đó là điều Lão Tử gọi
là vô vi - tìm ra trung tâm của cơn xoáy lốc. Cơn xoáy lốc là ở bên ngoài nhưng
trong trung tâm không cái gì chuyển động, không cái gì khuấy động. …Dùng vô ngôn mà dạy dỗ; Tại
đây tôi đang thuyết giảng cho các bạn học thuyết không lời. Bạn sẽ nói tôi đang
dùng lời. Vâng, tôi đang thuyết giảng... không lời, bởi vì sâu bên trong tôi
không lời nào nảy sinh. Nó là dành cho bạn, không phải cho tôi, lời là dành cho
bạn, nó không dành cho tôi. Tôi dùng nó; tôi không bị nó dùng, nó không chất
đầy tôi. Khoảnh khắc tôi không nói với bạn thì tôi không nói gì hết cả. Tôi
chưa bao giờ nói với bản thân mình, không có việc nói chuyện bên trong. Khi tôi
không nói, tôi im lặng, còn khi tôi nói, im lặng không bị quấy rối, im lặng vẫn
còn không bị động tới. Dùng vô ngôn mà dạy dỗ; Để cho mọi vật nên mà không
cản Ông
ấy chưa bao giờ trốn chạy. Ông ấy chưa bao giờ bác bỏ. Ông ấy chưa bao giờ từ
bỏ. Và đó là ý nghĩa của tính chất sannyas của tôi. Từ sannyas có
nghĩa là từ bỏ, nhưng tôi không thuyết giảng từ bỏ. Thế thì tại sao tôi gọi bạn
là sannyasins? Tôi gọi bạn là sannyasins theo nghĩa của Lão Tử:
từ bỏ vậy mà không từ bỏ, vẫn còn trong thế giới nhưng vậy mà lại ở ngoài nó -
đây là gặp gỡ của các cái đối lập. Cho nên tôi không bảo bạn ra đi, vứt bỏ, rời
bỏ gia đình mình. Không cần thiết. Bạn vẫn ở đấy, bạn ở đấy toàn bộ, nhưng sâu
bên dưới, cái gì đó vẫn còn ở trên, siêu việt - đừng quên điều đó. Khi bạn ở
cùng với vợ bạn, ở cùng với vợ đi, và cũng cùng với bạn nữa. Đó mới là vấn đề.
Nếu bạn quên mất bản thân mình và bạn chỉ ở với vợ, bạn là người phàm tục. Thế
thì chẳng chóng thì chầy bạn sẽ trốn đi, bởi vì điều đó sẽ tạo ra nhiều khổ
trong cuộc sống tới mức bạn sẽ muốn bỏ đi và từ bỏ và đi lên đồi núi. Cả hai
đều cực đoan. Mà chân lí chẳng bao giờ cực đoan. Nó là trong cả hai và không trong cả hai. Để cho mọi vật nên mà không cản Tạo ra mà không chiếm đoạt Yêu
con bạn, nhưng đừng sở hữu chúng. Yêu vợ bạn và chồng bạn, nhưng đừng sở hữu họ.
Khoảnh khắc bạn sở hữu... bạn không biết: sâu bên dưới bạn đã bị sở hữu rồi.
Người sở hữu là vật bị sở hữu. Đừng sở hữu - bởi vì việc sở hữu cố gắng phá huỷ
trung tâm của người khác, và người khác sẽ không cho phép bạn làm điều đó. Và
nếu bạn cố gắng phá huỷ trung tâm của người khác, trong chính nỗ lực đó trung
tâm của bạn sẽ bị phá huỷ. Thế thì sẽ chỉ có xoáy lốc và không có trung tâm. Hiện
hữu trong thế giới và vậy mà không trong nó. Cái gì đó sâu trong bạn siêu việt
lên, vẫn còn nổi trong bầu trời - gốc rễ trong đất, cành vươn lên trời. Tạo ra mà không chiếm đoạt Làm mà không cậy công; Thành công mà không ở lại. Ông
ấy đơn giản sống, như một phần của cái toàn thể - làm sao ông ấy có thể kể công
được? Ông ấy đơn giản sống như một phần của sự thống nhất hữu cơ này, sự tồn
tại này, cái như thế này. Ông ấy là một phần của nó; làm sao ông ấy có thể kể
công? Làm sao sóng có thể kể công gì? Sóng chỉ là một phần của đại dương. Làm mà không cậy công; Thành công mà không ở lại. Vì không ở lại Nên không bị bỏ đi Đây
là logic ngớ ngẩn của Lão Tử. Ông ấy tuyệt đối logic, nhưng ông ấy có logic
riêng của mình. Ông ấy nói: Vì không ở lại Nên không bị bỏ đi
Nếu bạn đòi
hỏi, việc đòi hỏi đó có thể bị bác bỏ; nếu bạn không đòi hỏi, làm sao việc đòi
hỏi - chưa được đưa ra chút nào - có thể bị bác bỏ? Nếu bạn cố gắng là ai đó
trong thế giới này, điều đó có thể được chứng minh rằng bạn là không ai cả.
Điều đó sẽ được chứng minh, bởi vì mọi người đều đang cố gắng là ai đó
và mọi người đều là kẻ cạnh tranh trong đòi hỏi đó. Nhưng nếu bạn không đòi
hỏi, bạn vẫn còn là không ai cả - làm sao điều này có thể bị bác bỏ? Trong tính
không ai cả của bạn, bạn trở thành ai đó, và không ai có thể bác bỏ điều đó và
không ai có thể cạnh tranh với điều đó. Nếu bạn cố gắng
thắng lợi thì bạn sẽ bị thất bại. Hỏi tất cả các Alexanders và Napoleons và
Hitlers: nếu bạn cố gắng được thắng lợi thì bạn sẽ bị thất bại. Lão Tử nói:
Đừng cố gắng được thắng lợi, thế thì không ai có thể đánh bại được bạn. Logic
rất tinh vi, logic của bản thân cuộc sống: không đòi hỏi, và việc đòi hỏi của
bạn được hoàn toàn đáp ứng; không cố gắng được thắng lợi, và thắng lợi của bạn
là tuyệt đối; không cố gắng, và tất cả những gì bạn có thể cố gắng, sẽ tự nó
tới với bạn, theo cách riêng của nó. Người không đòi
hỏi điều gì, người không cố gắng để thành công theo bất kì cách nào, người
không nỗ lực để bất kì tham vọng nào được hoàn thành, bỗng nhiên thấy rằng tất
cả mọi việc đều được hoàn thành - bản thân cuộc sống tới người đó để chia sẻ
các bí mật của nó, để chia sẻ giầu có của nó. Bởi vì một người vẫn còn không
đòi hỏi thì trở thành trống rỗng; trong trống rỗng đó cuộc sống cứ đổ các bí
mật và giầu có của nó ra. Cuộc sống ghét
chân không. Nếu bạn trở thành trống rỗng, mọi thứ sẽ tới theo cách của riêng
nó. Cố gắng, bạn sẽ thất bại; không cố gắng, thành công là tuyệt đối chắc chắn.
Tôi không nói rằng nếu bạn muốn thành công thì đừng cố gắng - không, tôi không
nói điều đó. Nó không phải là kết quả, nó là hậu quả. Và bạn phải hiểu khác
biệt giữa kết quả và hậu quả. Khi bạn nghe Lão Tử hay nghe tôi, tất nhiên bạn
hiểu logic là nếu bạn cố gắng để được thành công, thì bạn sẽ bị thất bại bởi vì
có cả triệu kẻ cạnh tranh. Làm sao bạn có thể thành công trong thế giới cạnh
tranh này? Không ai đã từng thành công cả. Mọi người đều thất bại. Và mọi người
thất bại hoàn toàn, không có ngoại lệ. Và thế rồi Lão Tử nói rằng nếu bạn không
cố gắng để thành công, bạn sẽ thành công. Tâm trí bạn trở nên tham lam, và tâm
trí bạn nói: Điều đó là phải rồi! Vậy đây là cách để thành công! Mình sẽ không
đòi hỏi, mình sẽ không tham vọng để cho tham vọng của mình có thể được hoàn
thành. Bây giờ điều này lại đang đòi hỏi một kết quả. Bạn vẫn còn như cũ - bạn
đã bỏ lỡ Lão Tử hoàn toàn. Lão Tử đang nói
rằng nếu bạn vẫn còn không có bất kì đòi hỏi nào, không kể công gì, danh vọng,
tên tuổi, thành công, tham vọng, thế thì xem như một hậu quả, thành công có đó,
thắng lợi có đó. Toàn thể sự tồn tại dồn vào cái trống rỗng của bạn; bạn được
hoàn thành. Đây là hậu quả, không phải kết quả. Kết quả là khi bạn ham muốn nó;
hậu quả là khi bạn thậm chí không nghĩ về nó, không có ham muốn, không suy nghĩ
về nó. Luật đó được gọi là Đạo. Vì không ở lại Nên không bị bỏ đi Hiểu
Lão Tử đi. Và hiểu tham lam bên trong của bạn. Bởi vì tham lam có thể nói...
Điều đó xảy ra hàng ngày, gần như mọi ngày - mọi người tới tôi và tôi bảo họ: Thiền
đi, nhưng đừng đòi hỏi kết quả. Họ nói: Nếu chúng tôi không đòi hỏi kết quả, liệu
chúng có xảy ra không? Tôi nói: Có, chúng sẽ xảy ra, nhưng đừng yêu cầu chúng.
Cho nên họ nói được. Thế rồi sau vài ngày họ tới và họ nói: Chúng tôi đã chờ
đợi và chúng đã không xảy ra mãi cho tới giờ. Bạn bỏ lỡ vấn
đề. Bạn không thể chờ đợi được. Bạn có thể đợi kết quả; bạn không thể đợi hậu
quả. Hậu quả chẳng liên quan gì tới bạn hay chờ đợi của bạn. Nó là một phần của
luật bên trong nhất. Nó xảy ra theo cách riêng của nó. Bạn thậm chí không cần
phải đợi, bởi vì ngay cả trong chờ đợi - là ham muốn. Và nếu ham muốn có, thì
hậu quả sẽ không bao giờ xảy ra. Không ham muốn và nó xảy ra. Không hỏi và nó
được trao. Jesus nói: Hỏi, và điều đó sẽ được trao. Gõ cửa và cửa sẽ được mở
ra. Lão Tử nói: Không hỏi, và nó sẽ được trao. Không gõ, và cửa bao giờ cũng
vẫn còn để mở - chỉ nhìn! Và tôi nói với
bạn: Lão Tử đi sâu nhất, không ai đã từng đi sâu hơn. Lão Tử là chìa khoá vĩ
đại nhất. Nếu bạn hiểu ông ấy, ông ấy là chìa khoá chủ; bạn có thể mở tất cả
mọi ổ khoá tồn tại trong cuộc sống và sự tồn tại. Cố hiểu ông ấy đi. Và sẽ dễ
dàng cho bạn nếu bạn không đòi hỏi bất kì kết quả nào từ hiểu biết này. Chỉ tận
hưởng việc hiểu biết đó. Chỉ tận hưởng sự kiện là bạn đang trên cuộc hành trình
với lão già này. Lão già này là đẹp - không chống lại cái xấu; lão già này là
trí huệ - không chống lại ngu ngốc; lão già này là chứng ngộ - không chống lại
việc chưa chứng ngộ hay người chưa chứng ngộ. Lão già này là toàn bộ. Bạn tồn
tại trong ông ấy, và chư phật cũng vậy. Ông ấy là cả hai. Và nếu bạn có thể
hiểu ông ấy, thì chẳng còn lại cái gì để được hiểu nữa. Bạn có thể quên các
Mahavira, các Phật, các Krishna - Lão Tử một mình là đủ. Ông ấy là chiếc chìa
khoá chủ. Câu hỏi thứ
nhất: Tôi có tới
nhầm chỗ không? Tôi chỉ muốn là bình thường và hạnh phúc. Tôi muốn một người
phụ nữ để yêu, và yêu tôi; bạn bè dành thời gian cho nhau và tận hưởng. Tôi
không muốn chứng ngộ. Tôi có tới nhầm chỗ không? Nhiều thế kỉ
giáo dục sai đã hoàn toàn làm tâm trí bạn lẫn lộn về chứng ngộ. Chính từ này
dường như là siêu nhiên, thế giới khác; chính từ này dường như là cái gì đó ở
sau cái chết hay dành cho những người đã chết. Điều này hoàn toàn sai. Nếu bạn muốn
hạnh phúc, không có cách nào khác hơn là chứng ngộ. Nếu bạn muốn là người bình
thường, không ai đã từng là bình thường mà lại không chứng ngộ. Nếu bạn muốn
yêu và được yêu, điều đó là không thể được nếu không có chứng ngộ. Cho nên bạn
sẽ phải hiểu khái niệm của tôi về chứng ngộ. Nó chỉ là thông thường, lành mạnh,
nhận biết, toàn thể, toàn bộ. Mọi tâm trí đều
đang tìm kiếm cái phi thường nào đó. Đó chính là điều bản ngã là gì: bao giờ
cũng cố gắng là ai đó nói riêng, bao giờ cũng sợ là không ai cả, bao giờ cũng
sợ cái trống rỗng, bao giờ cũng cố gắng trút đầy cái trống rỗng bên trong bằng
bất kì cái gì và mọi thứ. Mọi con người đều tìm kiếm cái phi thường - và điều
đó tạo ra khổ. Điều đó là không thể được. Tính không ai cả mới chính là bản
chất của bạn, vô hiện hữu mới chính là chất liệu tạo nên bạn. Dù bạn có cố gắng
tới đâu thì bạn cũng chẳng bao giờ thành công cả; ngay cả Alexanders cũng thất
bại. Bạn không thể là ai đó được bởi vì điều đó là không thể được theo chính
bản chất của mọi vật. Bạn chỉ có thể là không ai cả. Nhưng chẳng có gì sai
trong việc là không ai cả; trong thực tế, khoảnh khắc bạn chấp nhận tính không
ai cả, ngay lập tức phúc lạc bắt đầu tuôn trào từ bạn theo đủ mọi hướng - bởi
vì khổ biến mất. Khổ là cái bóng của bản ngã, cái bóng của tâm trí tham vọng. Khổ
có nghĩa là bạn đang làm điều gì đó không thể được và bởi vì bạn đang không làm
được trong điều đó nên bạn mới khổ. Bạn đang làm điều gì đó phi tự nhiên, đang
cố gắng làm nó và đang thất bại, cho nên bạn cảm thấy thất vọng, khổ. Địa ngục chẳng
là gì ngoài kết quả cuối cùng của nỗ lực không thể được, phi tự nhiên. Cõi trời
chẳng là gì ngoài việc là tự nhiên. Bạn là không ai
cả. Bạn được sinh ra như một người không ai cả, không tên tuổi, không hình
dạng. Bạn sẽ chết đi như một người không ai cả. Tên tuổi và hình dạng chỉ là
trên bề mặt; sâu bên dưới bạn chỉ là không gian bao la. Và điều đó là đẹp, bởi
vì nếu bạn là ai đó, bạn sẽ bị giới hạn. Cũng tốt là Thượng đế không cho phép
bất kì ai được là ai đó; nếu bạn là ai đó, bạn sẽ hữu hạn, giới hạn, bạn sẽ là
một sinh linh bị cầm tù. Không, Thượng đế không cho phép điều đó. Ngài cho bạn
tự do để mang tính không ai cả - vô hạn, không tận cùng. Nhưng bạn không sẵn
sàng. Với tôi, chứng ngộ tất cả đều là hiện tượng này: nhận ra, hiểu ra, chấp
nhận sự kiện rằng người ta là không ai cả. Bỗng nhiên bạn chấm dứt cố gắng điều
không thể được. Bỗng nhiên bạn chấm dứt việc tự kéo mình lên bằng dây giày của
mình. Bạn hiểu ra cái ngớ ngẩn của nó - và bạn chấm dứt. Và tiếng cười lan toả
khắp bản thể bạn. Bỗng nhiên bạn bình thản và tự chủ. Chính nỗ lực muốn là ai
đó đang tạo ra rắc rối. Và khi bạn cố
gắng là ai đó, thì bạn không thể yêu được. Tâm trí tham vọng không thể yêu
được. Đấy là điều không thể được, bởi vì người đó đầu tiên phải hoàn thành tham
vọng của mình. Người đó phải hi sinh mọi thứ cho nó. Người đó sẽ cứ hi sinh
tình yêu của mình. Nhìn người tham vọng mà xem - nếu họ theo đuổi tiền bạc, họ
bao giờ cũng trì hoãn yêu. Ngày mai khi đã tích luỹ được nhiều tiền, họ sẽ yêu;
ngay bây giờ đấy là điều không thể được. Điều đó là không thực tế theo bất kì
cách nào; ngay bây giờ họ không thể đảm đương được nó. Yêu là thảnh thơi còn họ
chạy theo cái gì đó để thành đạt - mục tiêu. Có thể nó là tiền bạc, có thể nó
là quyền lực, danh vọng, chính trị. Làm sao họ có thể yêu bây giờ được? Họ
không thể ở đây và bây giờ - còn yêu là hiện tượng ở đây và bây giờ. Yêu tồn
tại chỉ trong hiện tại, tham vọng tồn tại trong tương lai: yêu và tham vọng
chưa bao giờ gặp gỡ. Bạn không thể
yêu được. Và nếu bạn có thể yêu, làm sao bạn có thể được người nào khác yêu?
Tình yêu là giao cảm sâu sắc của hai con người đã sẵn sàng ở cùng nhau - khoảnh
khắc này, không phải ngày mai; người sẵn sàng là toàn bộ trong khoảnh khắc này
và quên đi mọi quá khứ và tương lai. Yêu là quên lãng quá khứ và tương lai và
là việc nhớ tới khoảnh khắc này, khoảnh khắc rung động này, khoảnh khắc sống
động này. Yêu là chân lí của khoảnh khắc này. Tâm trí tham
vọng chưa bao giờ ở đây cả, nó bao giờ cũng là việc đi. Làm sao bạn có thể yêu
một người đang chạy được? Người đó bao giờ cũng trong cuộc đua, trong thi thố;
người đó không có thời gian. Hay người đó nghĩ rằng ở đâu đó trong tương lai,
khi mục tiêu được đạt tới, khi người đó đã đạt tới quyền lực mình tìm kiếm, giầu
có mình tìm kiếm, thế thì người đó sẽ thảnh thơi và yêu. Điều này sẽ không xảy
ra, bởi vì mục tiêu sẽ chẳng bao giờ đạt được cả. Tham vọng sẽ
không bao giờ được hoàn thành. Chính bản chất của nó là không được hoàn thành.
Bạn có thể hoàn thành một tham vọng; lập tức cả nghìn tham vọng khác nảy sinh
ra từ nó. Tham vọng không bao giờ chấm dứt. Nếu bạn theo kịp nó, nếu bạn hiểu, nó
có thể chấm dứt ngay bây giờ. Nhưng nếu bạn cho nó năng lượng, làm sao bạn có
thể yêu được? Đó là lí do tại sao mọi người khổ thế khi cố gắng là ai đó - khổ
bởi vì họ không có được tình yêu, khổ bởi vì họ không thể yêu được. Tình yêu là cực
lạc: cực lạc của vô trí, cực lạc của hiện tại, cực lạc của trạng thái vô tham
vọng, cực lạc của cái trống rỗng. Bất kì khi nào người yêu hiện hữu, thì đều
không có ai: chỉ tình yêu tồn tại. Khi hai người yêu gặp nhau, họ không phải là
hai. Họ có thể có vẻ là hai với bạn, từ bên ngoài. Nhưng câu chuyện bên trong
lại hoàn toàn khác: họ không là hai. Khoảnh khắc họ gặp gỡ, cái hai biến mất,
chỉ tình yêu tồn tại và tuôn chảy. Làm sao điều đó có thể được nếu bạn còn chưa
là trống rỗng bên trong, cái không, để cho không có rào chắn nào, không có gì
giữa bạn và người yêu của bạn? Nếu bạn là ai đó và người yêu của bạn cũng là ai
đó, thế thì hai người không gặp gỡ mà là bốn: hai người thực là không ai cả,
người đang đứng ở hậu cảnh và hai ai đó - hai bản ngã giả đang bắt tay, âu yếm,
làm những động tác yêu. Đấy là vở kịch để xem: lố bịch! Bất kì khi nào những
người yêu gặp nhau, đều không có ai cả, và hai cái không ai cả thì không thể là
hai được. Làm sao hai cái không lại có thể là hai được? Những cái không không
có lằn ranh - cái không là bao la. Hai cái không trở thành một. Hai ai đó vẫn
còn là hai. Đó là lí do tại
sao yêu trở thành một chuyện xấu thế - yêu được bạn gọi, chứ không phải tôi
gọi. Tình yêu của bạn là một chuyện xấu, cái xấu nhất. Nó phải là như thế. Nó
đáng ra có thể là hiện tượng đẹp nhất trên thế giới nhưng nó đã trở thành cái
xấu nhất: người yêu thường xuyên đánh nhau, cãi nhau, tạo ra khổ lẫn cho nhau.
Sartre nói, "Người kia là địa ngục." Ông ấy nói điều gì đó về tình
yêu của bạn đấy. Bất kì khi nào bạn một mình, bạn đều cảm thấy được thảnh thơi,
bất kì khi nào bạn ở cùng với người yêu, căng thẳng lại phát sinh. Bạn không
thể sống một mình được bởi vì cái không ai cả sâu sắc nhất đang khao khát... nó
có cơn khát, cơn đói sâu sắc. Cho nên bạn không thể vẫn còn một mình được. Bạn
phải di chuyển - bạn tìm kiếm sự cùng nhau, nhưng khoảnh khắc bạn cùng nhau thì
nó lại là khổ. Mọi quan hệ đều tạo ra khổ chứ không cái gì khác. Chừng nào bạn
còn chưa chứng ngộ, tình yêu chỉ trở thành xung đột, cãi nhau. Dần dần người ta
thu được việc điều chỉnh cho nó. Điều đó có nghĩa là dần dần người ta trở nên
mụ mẫm, không nhạy cảm. Đó là lí do tại sao toàn thế giới lại trông chết thế,
cũ rích thế. Nó bốc mùi. Mọi quan hệ đều thành cũ rích, chúng đã trở thành xấu. Cho nên nếu bạn
muốn thực sự yêu và được yêu... điều đó không thể được ngay bây giờ như bạn
hiện thế; bạn phải biến mất. Bạn phải ra đi - để cho cái không, vốn dĩ tinh
khôi, được còn lại, cái không, vốn dĩ tươi tắn, được để lại sau. Chỉ thế thì đoá
hoa của tình yêu mới có thể nở ra. Hạt mầm có đó nhưng bản ngã lại giống như
tảng đá, và hạt mầm không thể mọc ra trên nó được. Và bạn nói bạn
muốn là người bình thường? - và bạn muốn yêu? - và bạn muốn bạn bè? - và bạn
muốn tận hưởng? Đây đích xác là điều chứng ngộ tất cả là gì! Nhưng nếu bạn đi
tới các tu sĩ và tới các nhà thuyết giảng và tới các tôn giáo có tổ chức và các
nhà thờ, thì chứng ngộ của họ lại khác. Họ chống lại tình yêu; họ chống lại
tính thông thường; họ chống lại tình bạn; họ chống việc tận hưởng; họ chống lại
mọi thứ mà bản chất của bạn tự nhiên tìm kiếm. Họ là những kẻ đầu độc lớn. Nhưng nếu bạn
tới tôi, bạn đã tới đúng người rồi - đúng người theo nghĩa là chứng ngộ của tôi
là của thế giới này. Tôi không nói rằng không có thế giới khác. Tôi không nói
rằng sự tồn tại trái đất này là sự tồn tại duy nhất - không. Đừng hiểu lầm tôi.
Nhưng cái kia phụ thuộc vào cái này, thế giới kia phụ thuộc vào thế giới này,
và bầu trời kia phụ thuộc vào trái đất này. Nếu bạn muốn đi lên cao hơn, bạn
phải bắt rễ sâu hơn ở đây trong đất này. Bạn cần gốc rễ trong cuộc sống này,
thế thì hoa sẽ tới trong cuộc sống khác. Cuộc sống khác không chống lại cuộc
sống này; trong thực tế cuộc sống khác chỉ là việc nở hoa của cuộc sống này.
Thượng đế không chống lại thế giới này, ngài không ở ngoài nó; ngài ở bên trong
nó, ẩn bên trong nó. Bạn không cần đi ngược lại thế giới để tìm ngài - nếu bạn
đi bạn sẽ chẳng bao giờ tìm ra ngài. Ngài ẩn ở đây và bây giờ. Bạn phải tìm,
bạn phải đi sâu vào trong sự tồn tại này - và đó là cách duy nhất để tìm ra ngài.
Toàn bộ cuộc sống này, toàn bộ sự tồn tại này không là gì ngoài ngôi đền, và ngài
đang ẩn trong nó. Đừng trốn khỏi nó. Tôi không chống
lại cuộc sống này; trong thực tế tôi không chống lại điều gì cả. Tôi ủng hộ mọi
thứ, bởi vì nếu nó tồn tại thì phải có mục đích cho nó chứ. Thượng đế không thể
tạo ra cái gì không mục đích nào cả - ngài không điên. Sự tồn tại là rất có mục
đích, có ý nghĩa; nếu cuộc sống này tồn tại, nó có nghĩa là cuộc sống khác
không thể tồn tại mà không có nó. Điều đó là cơ sở. Nhưng bạn mang
khái niệm của mình khi bạn tới tôi. Khi bạn tới tôi và tôi nói về chứng ngộ,
bạn hiểu tôi dưới dạng của điều bạn đã từng được dạy về chứng ngộ. Khi bạn tới
tôi và tôi nói về từ bỏ, sannyas, bạn hiểu điều gì đó khác, không phải
là điều tôi đang nói. Tôi phải dùng ngôn ngữ của bạn, và lời tất cả làm hỏng
đi. Chúng đã được dùng cả triệu lần bởi hàng triệu người với ý nghĩa khác nhau,
nghĩa khác nhau; và tôi đang trao cho chúng những chiều hướng mới của nghĩa. Người chứng ngộ
là người nhận biết hoàn toàn về cái trống rỗng bên trong của mình và không đánh
nhau với nó; thay vì thế, người đó tận hưởng nó, nó là phúc lạc. Qua việc tận
hưởng sự trống rỗng của mình mà người đó trở thành sẵn có cho người khác; người
khác có thể tận hưởng, người khác có thể tới và tham dự vào bí ẩn của người
này. Cánh cửa của người đó để mở, người đó mời bạn bè và người yêu tới, và
người đó sẵn sàng chia sẻ, người đó sẵn sàng cho. Khi bạn cho cái trống rỗng
của mình, bạn chẳng bao giờ sợ việc cho đó bởi vì bạn không thể vét cạn cái
trống rỗng được. Bạn cứ cho mãi, bạn cứ cho mãi - nó bao giờ cũng có đó, bạn
không thể vét cạn nó được. Chỉ cái hữu hạn mới có thể bị vét cạn, đó là lí do
tại sao chúng lại tạo ra tính keo kiệt - bạn sợ phải cho. Người cảm thấy mình
trống rỗng, thì sao người đó phải sợ việc cho? Người đó có thể cho bản thân
mình một cách toàn bộ, và chừng nào mà điều đó còn chưa thể được thì tình yêu
cũng là không thể được. Tình yêu là hiện tượng thiêng liêng, tình yêu không ô
uế. Mọi tình yêu xứng với cái tên đó đều linh thiêng. Và khi bạn đi vào trong
tình yêu, bạn đi vào trong thế giới của thuần khiết, hồn nhiên. Khi bạn yêu bạn
đi vào trong ngôi đền của điều thiêng liêng. Tận hưởng đi!
Tôi không ủng hộ buồn rầu và mặt dài. Tôi không ở đây để làm cho bạn khổ hơn -
bạn đã quá khổ rồi. Tôi không ở đây để cho bạn nhiều buồn bã. Tôi ở đây để thức
tỉnh bạn tới phúc lạc là quyền tập ấm của bạn, tự nhiên sẵn có cho bạn. Nhưng
bạn đã quên mất cách tiếp cận tới nó, và bạn đang đi sai hướng: bạn tìm nó ở
đâu đó nơi không có nó; bạn tìm nó ở bên ngoài và nó ở bên trong; bạn tìm nó ở
nơi xa xôi còn nó ở gần; bạn tìm nó ở các vì sao xa xăm và nó ở ngay phía trước
bạn. Trong tiếng
Anh có hai từ - hay. Một là "hiển nhiên" (obvious): hiển nhiên có
nghĩa là chỉ ngay phía trước bạn. Nó có nghĩa gốc Latin là ở ngay phía trước
bạn. Và thế rồi có từ khác: "vấn đề" (problem). Nó có gốc Hi Lạp cũng
có nghĩa là ở ngay trước bạn. Nghĩa gốc của 'hiển nhiên" và 'vấn đề"
là một. Hiển nhiên là vấn đề, cái ở ngay trước bạn là vấn đề - bởi vì bạn không
thể thấy nó được, mắt bạn đang vẩn vơ ở những vùng đất xa. Cái hiển nhiên đã
trở thành vấn đề. Và chứng ngộ là trở nên nhận biết về cái hiển nhiên, và khi
bạn trở nên nhận biết về cái hiển nhiên thì vấn đề biến mất. Sống một
cuộc sống không có vấn đề là sống cuộc sống chứng ngộ. Nó là cách hiện hữu hoàn
toàn khác: nó chẳng liên quan gì tới thành đạt cả, nó chẳng liên quan gì tới
học hành, nó chẳng liên quan gì tới nỗ lực, công phu. Điều duy nhất được cần
tới là thêm chút ít tỉnh táo để cho bạn có thể nhìn, thấy, quan sát cái ở trước
bạn. Giải pháp ở gần hơn, rất rất gần với bạn hơn là bạn tưởng. Đừng tìm nó ở
xa xăm; nó tồn tại bên trong bạn. Một khi bạn đã lắng đọng vào bên trong, định
tâm, bắt rễ, tôi sẽ cho bạn mọi tự do - đi và yêu. Đi và hiện hữu trong thế
giới này; bây giờ bạn sẽ có khả năng tận hưởng nó, bạn sẽ có khả năng nếm trải
nó, bạn sẽ có khả năng thấm sâu vào những khả năng sâu sắc nhất của nó. Và bất
kì khi nào bạn đi vào trong cõi giới của chiều sâu đó, bao giờ bạn cũng sẽ thấy
điều thiêng liêng ở đó. Trong tình yêu, đi sâu và bạn sẽ thấy Thượng đế; trong
thức ăn, ăn tốt, với tỉnh táo, nhận biết, và bạn sẽ thấy Thượng đế. Upanishads
nói annam brahm - thức ăn là Thượng đế. Và Upanishads nói rằng
dục cũng là anh em, anh em sinh đôi, của phúc lạc tối thượng cuối cùng. Anh em
sinh đôi của phúc lạc tối thượng cuối cùng - dục! Bạn đã kết án nó quá nhiều.
Nó có thể là bậc thang thấp nhất của chiếc thang nhưng nó thuộc vào chiếc
thang. Bậc cao nhất thuộc vào nó cũng như bậc thấp nhất; trong thực tế, mọi thứ
đều thuộc vào Thượng đế và là điều thiêng liêng. Đây là chứng
ngộ: có khả năng thấy trong mọi thứ nhịp đập thiêng liêng. Tôn giáo không chống
lại điều gì cả, tôn giáo là việc tìm ra sự linh thiêng ở mọi nơi. Và có nó đó,
đang chờ đợi bạn. Bạn đã tới
đúng chỗ rồi. Tâm trí bạn có thể muốn trốn khỏi đây, bởi vì điều này sẽ là cái
chết của tâm trí bạn. Nó là đúng chỗ cho bạn, nhưng sai chỗ cho tâm trí. Nó là
tuyệt đối đúng chỗ cho sự hiện hữu của bạn, nhưng cho tham vọng của bạn, bản
ngã bạn, lòng tự hào của bạn, cái ngu xuẩn của bạn, thì nó là chỗ sai nhất mà
bạn không thể nào tìm thấy ở đâu trên thế giới vào khoảnh khắc này. Cho nên bạn
quyết định đi. Nếu bạn muốn là ngu xuẩn, trốn đi. Thế thì tâm trí sẽ cứ lừa bạn
rằng bạn đang trong tình yêu và tận hưởng - và bạn biết mình không tận hưởng,
và bạn biết mình không trong tình yêu. Thế rồi tâm trí có thể cứ lừa phỉnh bạn
rằng bạn đang si mê - bạn không thể si mê được. Bạn thậm chí không có đó để mà
si mê. Bạn không tồn tại. Bạn không có sự hiện hữu tích hợp theo bất kì cách
nào. Bạn có thể vẩn vơ xung quanh và tự lừa dối mình nhưng nếu bạn thực sự muốn
được một phụ nữ yêu và bạn muốn người phụ nữ yêu, và bạn muốn có bạn bè, và bạn
muốn tận hưởng cuộc sống - tôi đang trao cho bạn mọi chìa khoá mở nó. Câu hỏi thứ
hai: Thầy nói rằng Lão Tử là người hiếm hoi nhất trong những
người tìm kiếm. Thế thì làm sao thầy gọi ông ấy là toàn bộ? Ông ấy là
người hiếm hoi nhất trong những người tìm kiếm bởi vì ông ấy là toàn bộ. Tâm
trí sợ tính toàn bộ, tâm trí bao giờ cũng tìm sự hoàn hảo. Tâm trí là kẻ cầu
toàn. Cố hiểu hai
chiều hướng này: chiều hướng của hoàn hảo và chiều hướng của toàn bộ. Với hoàn
hảo, bản ngã có thể tồn tại hoàn hảo; trong thực tế, nó không thể tồn tại mà
không có chiều hoàn hảo. Bản ngã bao giờ cũng cố gắng ngày một hoàn hảo hơn, và
khi bạn muốn là hoàn hảo thì bạn phải chọn - bạn không thể toàn bộ được. Nếu
bạn muốn khôn, bạn phải chọn: bạn phải bỏ ngu đi, bạn phải tranh đấu chống lại
dốt nát. Và nếu bạn muốn khôn hoàn hảo, bạn phải cắt bỏ đi tất cả mọi khả năng
về dốt nát, về ngu xuẩn, về điên khùng. Nhưng con
người toàn bộ hoàn toàn khác. Người đó là khôn trong cái ngu; người đó là ngu
trong cái khôn của mình. Người đó biết rằng mình là kẻ dốt nát - đó là cái khôn
của người đó. Trong người đó các mặt đối lập gặp gỡ. Lão Tử nói: mọi người
dường như khôn chỉ trừ ta. Ta dường như là ngu. Mọi người đều đang cố gắng là
khôn, cố gắng là có hiểu biết, cố gắng là thông minh - cắt xén, che giấu, kìm
nén cái ngu. Nhưng cái ngu có vẻ đẹp của riêng nó - nếu nó có thể được nối cùng
với cái khôn. Thế thì khôn là toàn bộ. Và con người khôn ngoan vĩ đại nhất theo
chiều hướng toàn bộ thì bao giờ cũng là người ngu nữa. Họ đơn giản và hồn nhiên
tới mức họ có vẻ như ngu ngốc. Lão Tử phải đã nhìn vào cái ngu của nhiều người.
Ông ấy là vậy; ông ấy là cả hai. Và đó là điều khó khăn: tâm trí tìm kiếm sự
hoàn hảo. Ai sẽ tới với Lão Tử? Không ai muốn vừa ngu vừa khôn cả. Và bạn thậm
chí cũng không thể nào hiểu nổi làm sao người ta lại có thể là cả hai. Làm sao
người ta có thể là cả hai được? Người ta kể
lại rằng một nhà huyền môn Sufi đi chu du và tới một thành phố. Và tên tuổi của
ông ta đã tới đó từ trước khi ông ta tới, danh tiếng của ông ta mọi người đều
đã biết. Cho nên mọi người tụ tập lại và nói, "Xin thầy giảng điều gì đó
cho chúng tôi." Nhà huyền
môn này nói, "Ta không phải là người khôn, bởi vì ta ngu nữa. Quí vị sẽ bị
lẫn lộn bởi giáo huấn của ta, cho nên tốt hơn cả là để cho ta im lặng."
Nhưng ông ta càng cố gắng tránh nó, thì họ lại càng nài nỉ hơn, họ lại càng trở
nên bị hấp dẫn bởi cá tính của ông ta. Cuối cùng
ông ta đành nhường và ông ta nói, "Thôi được rồi. Thứ sáu này ta sẽ tới
nhà thờ Mô ha mét giáo..." Đó là một làng Mô ha mét giáo. "... và các
vị muốn ta nói gì?" Họ nói,
"Tất nhiên là về Thượng đế." Thế là ông
ta tới - cả làng tụ tập lại, ông ta đã tạo ra xúc động thế. Ông ta đứng tại bục
giảng kinh và hỏi một câu hỏi, "Quí vị có biết gì về điều ta định nói về
Thượng đế không?" Dân làng tất
nhiên đáp lại, "Không, chúng tôi không biết thầy định nói gì." "Vậy
thì," ông ta nói, "điều đó là vô dụng, bởi vì nếu quí vị không biết
chút nào, quí vị sẽ không có khả năng hiểu được. Một chút ít chuẩn bị là cần
thiết, mà quí vị lại hoàn toàn chưa được chuẩn bị gì cả. Điều đó sẽ là vô ích
và ta sẽ không nói." Ông ta bỏ đi khỏi nhà thờ. Dân làng lấy
làm lúng túng: phải làm gì? Họ thuyết phục ông ấy tới vào thứ sáu sau. Thứ sáu
tới ông ấy lại tới. Ông ấy hỏi cùng câu hỏi ấy; mọi dân làng đều sẵn sàng. Ông
ấy hỏi, "Quí vị có biết điều ta định nói với các vị không?" Họ nói,
"Có chứ, tất nhiên rồi." Thế là ông
ấy nói, "Thế thì chẳng cần phải nói nữa. Nếu quí vị đã biết rồi - chấm
dứt. Sao lại phải làm phiền ta một cách không cần thiết và phí thời gian của quí
vị làm gì?" Ông ấy bỏ nhà thờ đi. Dân làng
hoàn toàn phân vân: phải làm gì với con người này đây? Nhưng bây giờ mối quan
tâm của họ sắp phát điên. Ông ấy phải che giấu điều gì đó! Cho nên họ lại
thuyết phục ông ấy bằng cách nào đó. Ông ấy tới,
và lần nữa ông ấy lại hỏi cùng câu hỏi cũ, "Quí vị có biết ta định nói gì
không?" Bây giờ dân
làng đã trở nên chút ít khôn hơn. Họ nói, "Một nửa chúng tôi biết, một nửa
chúng tôi không biết." Nhà huyền
môn nói, "Thế thì không có nhu cầu. Những người biết có thể nói cho những
người không biết. " Đây là người
khôn và ngu - người đó có vẻ ngu nhưng người đó lại rất khôn trong cái ngu của
mình; người đó trông có vẻ rất khôn nhưng người ấy lại hành xử như kẻ ngu. Nếu
bạn hiểu cuộc sống, bạn càng đi sâu hơn bạn sẽ càng hiểu hơn rằng cái toàn thể
mới đáng chọn lựa. Điều đó nghĩa là không có nhu cầu chọn. Việc chọn sẽ chặt
cắt cái toàn thể ra và bất kì cái gì bạn thu được cũng đều là mẩu mảnh và chết.
Khôn và ngu là cùng nhau trong cuộc sống; nếu bạn cắt chúng ra thế thì khôn sẽ
tách ra và ngu sẽ tách ra, nhưng cả hai sẽ chết. Nghệ thuật lớn lao nhất của
cuộc sống là để cho chúng trưởng thành cùng nhau theo quân bình đến mức mà cái
khôn của bạn mang phẩm chất nào đó của cái ngu, cái ngu của bạn mang phẩm chất
nào đó của cái khôn. Thế thì bạn là toàn bộ. Đó là lí do
tại sao: người hiếm hoi nhất là người tìm kiếm sẽ tới với Lão Tử. Ông ấy sẽ
dường như là ngớ ngẩn bởi vì đôi khi ông ấy sẽ hành xử như người khôn và đôi
khi ông ấy sẽ hành xử như người ngu. Và bạn không thể dựa vào ông ấy được, và
ông ấy không thể dự đoán được, và không ai biết được ông ấy định làm gì vào
khoảnh khắc tiếp - ông ấy sống khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Và bạn
không thể làm ra học thuyết từ ông ấy được: ông ấy không phải là người khôn,
ông ấy là người ngu nữa. Cái ngu đó sẽ quấy rối bạn. Và ông ấy bao giờ cũng
không nhất quán - trên bề mặt. Tất nhiên, sâu bên dưới tồn tại sự nhất quán,
tuyệt đối nhất quán: ông ấy nhất quán tới mức cái khôn và ngu của ông ấy cũng
nhất quán, nhưng để hiểu được điều đó thì bạn phải đi sâu hơn vào con người
này. Chỉ quen biết trên bề mặt sẽ chẳng có tác dụng, chỉ quen thuộc sẽ không có
tác dụng; bạn sẽ cần satsang. Bạn sẽ phải trong tham dự sâu với sự hiện
hữu của ông ấy, chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu được tính toàn bộ. Phật là khôn,
Mahavira là khôn. Bạn không thể tìm ra một chút ít ngu nào trong họ, họ là hoàn
hảo. Lão Tử thì không, Trang Tử thì không, Liệt Tử thì không. Họ là mâu thuẫn,
ngược đời, nhưng đấy là chỗ cái đẹp của họ hiện hữu. Phật là đơn điệu. Nếu bạn
hiểu Phật hôm nay thì bạn đã hiểu Phật hôm qua và bạn đã hiểu ngày mai của ông
ấy nữa. Ông ấy là một điều nhất quán - rõ ràng, logic, đi theo đường thẳng,
tuyến tính. Nhưng Lão Tử dích
dắc, ông ấy chạy như người điên. Bạn sẽ hiểu, khi chúng ta đi vào châm ngôn của
ông ấy; bạn sẽ hiểu rằng ông ấy chạy như người điên. Khẳng định của ông ấy
không tạo ra nghĩa trên bề mặt. Chúng là những phát biểu nhạy cảm nhất, nhưng
để biết tới nghĩa này bạn sẽ phải thay đổi hoàn toàn. Phật là trên bề mặt -
logic, hợp lí; bạn có thể hiểu ông ấy mà không trở thành thiền nhân; không tuôn
chảy vào trong sự hiện hữu của ông ấy bạn vẫn có thể hiểu được ông ấy. Ông ấy
là có thể hiểu được; nhưng không thế với Lão Tử. Tính toàn bộ này... Lão Tử
chấp nhận thế giới này và thế giới khác, và ông ấy chấp nhận toàn bộ. Ông ấy
không bận tâm về thế giới khác; ông ấy biết rằng thế giới khác đang phát triển
ra từ thế giới này - cái kia đang phát triển ra từ cái này, cho nên sao phải
bận tâm về nó? Sống cái này đẹp nhất có thể được đi, toàn bộ nhất có thể được
đi, và cái kia sẽ tới từ nó một cách tự nhiên. Nó sẽ là phát triển tự nhiên. Nếu bạn gặp Lão
Tử thì ông ấy sẽ gây phân vân. Lúc này ông ấy sẽ nói điều gì đó, lúc khác ông
ấy sẽ nói điều gì đó khác; ông ấy sẽ khẳng định một câu và trong câu tiếp ông
ấy sẽ mâu thuẫn lại nó. Đó là lí do tại sao chỉ rất hiếm người tìm kiếm mới đạt
tới ông ấy; đó là lí do tại sao không tồn tại tôn giáo có tổ chức cho Lão Tử.
Nó không thể tồn tại được. Chỉ cá nhân người tìm kiếm mới có thể đạt tới ông ấy
bởi vì tôn giáo có tổ chức phải là những người cầu toàn, phải tương ứng với tâm
trí, phải tương ứng với bạn; bởi vì tôn giáo có tổ chức có nghĩa là tôn giáo
quan tâm nhiều hơn tới đám đông, quan tâm nhiều hơn tới quần chúng. Nó phải tồn
tại với quần chúng và với đám đông. Lão Tử có thể
vẫn còn không tì vết, thuần khiết. Ông ấy không thoả hiệp. Tính toàn bộ của ông
ấy trở thành không thể nào hiểu nổi - đó là lí do tại sao hiếm người tìm kiếm
đạt tới ông ấy, bởi vì ông ấy là toàn bộ. Người càng toàn
bộ thì người đó càng trở thành không thể nào hiểu nổi, bởi vì người đó càng trở
thành giống Thượng đế. Người đó không rõ ràng. Người đó không giống như khu
vườn do con người tạo ra; người đó là vùng hoang vu, rừng rậm, không qui tắc,
không kế hoạch, một sự phát triển hoang dã, ngoài ý muốn. Đó là cái đẹp. Dù khu
vườn do con người trồng có đẹp đến đâu, thì con người rõ ràng có đó, bàn tay
con người rõ ràng có đó. Mọi thứ đều được con người lập kế hoạch, cắt xén, gieo
trồng - đối xứng, và mọi thứ. Nhưng trong rừng hoang bạn không có đối xứng nào,
bạn không thấy logic nào. Nếu Thượng đế là người làm vườn, ngài phải là kẻ
điên. Sao ngài cho phát triển rừng như vậy? Phật giống như người làm vườn,
người làm vườn của cung điện hoàng gia; Lão Tử giống như rừng hoang: bạn có thể
bị lạc trong nó. Bạn sẽ cảm thấy sợ và nguy hiểm sẽ ẩn nấp tại mọi bước đi và
mọi cái bóng sẽ gây cho bạn kinh hoàng đến chết. Đó là lí do tại sao Khổng Tử
nói: Chớ có lại gần ông ta. Không ai biết lối của ông ấy cả. Hoặc là ông ấy
điên hoặc ông ấy là con người khôn ngoan nhất. Nhưng chẳng ai biết ông ấy là ai
cả Tôi có ham
muốn mãnh liệt để hội nhập với vũ trụ, nhưng tôi vẫn còn bị tách biệt, lo âu,
vô gia cư - tại sao vậy? Cái gì giữ tôi lại, và cái gì cần được làm? Chính ham muốn
hội nhập với vũ trụ đang giữ bạn tách rời. Vứt bỏ cái ham muốn đó đi và có hội
nhập. Bạn không thể
hội nhập bằng ham muốn mãnh liệt được, bởi vì chính ham muốn đó sẽ giữ bạn tách
rời. Ai là người ham muốn này? Ham muốn mãnh liệt này thuộc về ai? Ham muốn
mãnh liệt tạo ra bản ngã mãnh liệt - và sự ngăn chặn. Và ai bảo bạn rằng bạn
tách rời và bạn cần được hội nhập? Bạn chưa bao giờ tách rời cả, cho nên tại
sao bạn chuồn đi? Bạn đã hội nhập rồi. Nhìn khác biệt
về quan điểm này. Lão Tử nói bạn được hội nhập trong sự tồn tại, bạn không tách
rời. Bạn chưa bao giờ hiện hữu, bạn không bao giờ có thể bị tách rời. Làm sao
điều đó là có thể được? Bạn tồn tại trong đại dương của điều thiêng liêng, hay
Đạo, hay bất kì cái gì bạn có thể đặt tên nó. Làm sao bạn có thể tách rời được?
Cho nên đầu tiên là khái niệm sai về "Mình tách rời," thế rồi khái
niệm sai nữa nảy sinh từ khái niệm thứ nhất - rằng "Mình phải hội
nhập." Và nếu bạn cố gắng hội nhập, bạn sẽ còn tách rời. Nhìn và quan sát
và thấy: bạn chưa bao giờ tách rời cả. Ai thở trong bạn? Bạn nghĩ là bạn sao?
Ai sống trong bạn? Bạn nghĩ là bạn sao? Ai được sinh ra trong bạn? Bạn có bất
kì khái niệm nào không? Cái mà được sinh ra trong bạn, cái mà đang sống trong
bạn, cái mà đang thở trong bạn, là cái toàn thể. Và đây chỉ là các ý nghĩ: làm
sao hội nhập? - thế thì bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng hội nhập cả. Nhìn vào
tình trạng của vấn đề. Bạn đã trong nó rồi. Người ta nói
rằng khi Lin Chi tới thầy mình, kêu khóc với nước mắt chảy ròng ròng từ đôi mắt
và hỏi cách trở thành vị phật, thầy đánh cho anh ta một cái rõ mạnh vào mặt,
tát anh ta thật đau. Anh ta choáng
váng và anh ta nói, "Thầy làm gì thế? Tôi có đòi hỏi điều gì sai
đâu?" Thầy nói,
"Có đấy. Đây là điều sai nhất mà người ta có thể hỏi. Cứ hỏi lần nữa và ta
sẽ đánh ông còn mạnh hơn. Ngu xuẩn làm sao! Ông là phật... và ông hỏi cách trở
thành phật sao?" Một khi bạn rơi
vào cái bẫy của cách trở thành vị phật, thì hàng triệu kiếp bạn sẽ bỏ lỡ toàn
bộ vấn đề. Bạn bao giờ cũng là vị phật rồi. Chuyện xảy ra
trong một kiếp riêng của Phật. Trong kiếp sống quá khứ của ông ấy, ông ấy nghe
nói về một người đã trở thành vị phật. Cho nên ông ấy tới và chạm chân người
đó. Nhưng ông ấy hoàn toàn ngạc nhiên, bởi vì khi ông ấy chạm chân vị Phật, thì
vị Phật lập tức chạm chân ông ấy. Thế là ông ấy
nói, "Điều này gây khó xử quá. Tôi chạm chân thầy bởi vì tôi là người dốt
nát, cứ tìm và kiếm mãi. Nhưng sao thầy chạm chân tôi? Thầy là người đã chứng
ngộ." Vị Phật cười và
ông ấy nói, "Anh có thể không biết. Ta thấy anh còn chưa biết mình là ai.
Nhưng ta biết anh rõ lắm. Một khi ta đã hiểu ra ta là ai, ta hiểu toàn thể sự
tồn tại này là gì. Nhưng anh có thể còn chưa nhận biết. Có thể mất chút thời
gian cho anh trở nên nhận biết mình là ai." Phật tính không
phải là thành đạt. Nó chỉ là việc nhận ra bạn là ai, nó chỉ là việc nhớ ra. Cho
nên đừng hỏi tôi về cách hội nhập. Và nếu bạn có ham muốn mãnh liệt để hội
nhập, thì ham muốn càng mãnh liệt sẽ càng khó cho người hội nhập. Ham muốn là
rào chắn. Xin vứt bỏ ham muốn đi và nhìn khắp xung quanh. Bạn là ai? Thượng đế
tồn tại, không phải bạn. Bạn là một khái niệm giả, một ý tưởng, một cái bong
bóng trong đầu - một bong bóng không khí, có vậy thôi. Bình tĩnh lại một chút
đi. Và nhìn quanh: bạn bao giờ cũng trong đại dương, bạn chưa bao giờ ở đâu
khác cả. Bạn không thể ở nơi khác được, bởi vì chẳng cái gì khác tồn tại cả.
Không có chỗ nào ngoại trừ Thượng đế - hay Đạo. Cho nên bạn càng nhận sớm cái
ngu xuẩn của ham muốn này, của sự hội nhập này, thì càng tốt. Bạn đã là cái bạn
đang tìm kiếm rồi. Đây là thông
điệp của mọi người đã thức tỉnh: bạn đã là cái bạn đang tìm kiếm. Bạn đã là mục
tiêu. Bạn chưa bao giờ rời khỏi nhà. Có một câu
chuyện hay - nó có vẻ báng bổ chút ít, nhưng chỉ phật tử thiền mới có thể làm
điều đó. Họ yêu thầy mình nhiều, họ yêu Phật nhiều tới mức họ thậm chí có thể
chấp nhận việc báng bổ. Có một câu
chuyện rằng một con khỉ tới Phật. Khỉ đại diện
cho con người, khỉ có nghĩa là tâm trí. Tâm trí là khỉ. Charles Darwin
đã đi tới biết điều đó rất rất chậm, nhưng chúng ta bao giờ cũng nhận biết rằng
con người phải đã bắt nguồn từ khỉ, bởi vì con người vẫn mang tính khỉ. Bạn cứ
quan sát tâm trí, việc huyên thuyên thường xuyên của nó, và thế rồi quan sát
con khỉ trên cây. Bạn sẽ thấy sự tương đồng. Một con khỉ tới
Phật, và nó không phải là con khỉ thường. Nó là vua khỉ, hầu vương - điều đó
nghĩa là hoàn toàn là khỉ. Con khỉ nói với
Phật, "Ta muốn trở thành vị phật." Phật nói,
"Ta chưa từng nghe nói về bất kì ai đã trở thành phật trong khi vẫn còn là
khỉ." Con khỉ nói,
"Ông không biết quyền năng của ta. Ta không phải là khỉ thường đâu."
Chẳng con khỉ nào nghĩ rằng nó là khỉ thường cả, mọi con khỉ đều nghĩ rằng
chúng là phi thường; đó là một phần của tính khỉ của nó. Nó nói, "Ta không
phải là khỉ thường đâu. Ông đang nói cái gì vậy? Ta là vua của khỉ." Thế là Phật
hỏi, "Mi có quyền năng ngoại lệ hay phi thường nào? Mi có thể biểu diễn
cho ta xem không? " Con khỉ nói,
"Ta có thể nhảy tới cùng trời cuối đất." Nó đã nhảy nhót trên mọi cây
cối. Nó biết cách nhảy. Thế là Phật
nói, "Được rồi. Lên lòng bàn tay ta rồi nhảy tới cùng trời cuối đất xem
sao." Con khỉ cố gắng
và cố gắng, và nó thực sự là một con khỉ rất quyền năng, một con khỉ rất mạnh
mẽ. Nó đi như tên bắn, và nó đi mãi nó đi mãi... nó đi mãi. Nhiều tháng và -
câu chuyện kể - nhiều năm trôi qua. Và thế rồi con khỉ đi tới cùng trời cuối
đất. Nó cười; nó
nói, "Trông kìa! Chỗ cùng trời cuối đất đây rồi!" Nó nhìn xuống. Đấy
là một vực thẳm: năm cột trụ đang đứng đó để đánh dấu biên giới. Bây giờ nó
phải quay về. Nhưng làm sao nó có thể chứng minh rằng nó đã ở chỗ năm cây cột
trụ đó? Thế là nó đái gần một cây cột trụ - một con khỉ! - để đánh dấu nó! Nhiều năm trôi
qua và nó quay về. Khi nó về tới Phật nó nói, "Ta đã tới chỗ cùng trời
cuối đất, và ta đã để lại một đánh dấu." Nhưng Phật nói,
"Nhìn quanh lại xem sao." Nó chẳng đi
chút nào. Năm cột trụ đó là năm ngón tay của Phật. Và chúng bốc mùi khai... Nó
đã ở đó với mắt nhắm... phải đã mơ màng. Tâm trí là con
khỉ với mắt nhắm, mơ màng. Bạn chưa bao giờ đi đâu cả, bạn bao giờ cũng ở đây và
bây giờ - bởi vì chẳng cái gì khác tồn tại cả. Chỉ mở mắt ra thôi. Chỉ mở mắt
ra và nhìn quanh, và bỗng nhiên bạn sẽ cười. Bạn bao giờ cũng được bắt rễ vào
sự hiện hữu tối thượng, không có nhu cầu hội nhập. Nhu cầu duy nhất là trở nên
tỉnh táo về nơi bạn đang hiện hữu, bạn là ai. Và vứt bỏ cái
ngu xuẩn về ham muốn mãnh liệt đó. Ham muốn là rào chắn; ham muốn mãnh liệt tất
nhiên là rào chắn lớn hơn. Ham muốn che mờ tâm trí. Ham muốn tạo ra khói quanh
bạn, bức màn khói, và thế thì bạn không thể thấy được cái gì thực tế là hoàn
cảnh. Câu hỏi thứ tư: Thầy đã nói
về hài hoà của các cái đối lập. Tôi cảm thấy rằng ghét giết chết yêu và giận dữ
giết chết từ bi. Các cực đoan đang đánh nhau bên trong tôi. Làm sao tôi có thể
tìm ra hài hoà? Bạn hoàn toàn
sai. Nếu ghét giết chết yêu và giận dữ giết chết từ bi thế thì không có khả
năng nào - không có khả năng nào có đó cho yêu hay từ bi. Thế thì bạn bị bắt,
thế thì bạn không thể thoát ra khỏi nó. Bạn đã sống với ghét hàng triệu kiếp
rồi - nó phải đã giết chết yêu. Bạn đã sống với giận dữ hàng triệu kiếp rồi -
nó phải đã sát hại từ bi. Nhưng nhìn xem... yêu vẫn có đó, ghét tới rồi đi; yêu
còn lại. Giận dữ tới rồi đi; từ bi còn lại. Ghét không có khả năng giết chết
yêu; đêm không có khả năng giết chết ngày và bóng tối không có khả năng sát hại
ánh sáng. Không, chúng vẫn tồn tại. Cho nên điều
đầu tiên cần hiểu là: chúng đã không bị giết chết. Đấy là một điều. Và điều thứ
hai sẽ là có thể chỉ về sau, khi bạn thực sự yêu. Bạn không thực sự yêu; đó là
rắc rối, không phải là ghét. Ghét không phải là rắc rối - bạn không thực sự
yêu. Bóng tối không phải là rắc rối - bạn không có ánh sáng. Nếu ánh sáng có
đó, bóng tối biến mất. Bạn đã không yêu. Bạn viển vông, bạn tưởng tượng, bạn mơ
mộng - nhưng bạn đã không yêu. Yêu đi. Nhưng
tôi không nói rằng chỉ bởi yêu mà ghét sẽ lập tức biến mất - không. Ghét sẽ
tranh đấu lại. Mọi người đều muốn tồn tại. Ghét sẽ vật lộn. Bạn càng yêu nhiều,
ghét sẽ càng tới mạnh hơn. Nhưng bạn sẽ ngạc nhiên: ghét tới và đi. Nó không
giết chết tình yêu; thay vì thế, nó làm cho tình yêu mạnh thêm. Tình yêu có thể
hấp thu cả ghét nữa. Nếu bạn yêu một người, trong khoảnh khắc nào đó bạn có thể
ghét. Nhưng điều đó không phá huỷ yêu; thay vì thế, nó đem lại giầu có cho yêu. Trong thực tế
ghét là gì? - nó là xu hướng đi xa. Yêu là gì? - xu hướng xích lại gần hơn.
Ghét là xu hướng tách ra, xu hướng phân li. Yêu là xu hướng kết hợp, lại gần,
trở nên gần hơn, trở thành một. Ghét là trở thành hai, độc lập. Yêu là trở
thành một, tương thuộc. Bất kì khi nào bạn ghét, bạn đều chạy xa khỏi người yêu
của mình. Nhưng trong cuộc sống bình thường đi xa lại cần trở lại lần nữa. Nó
cũng giống như khi bạn ăn: bạn đói cho nên bạn ăn, thế thì cơn đói qua đi bởi
vì bạn đã ăn. Khi bạn yêu một người điều đó cũng tựa thức ăn. Tình yêu là thức
ăn - rất tinh tế, tâm linh, nhưng nó là thức ăn: nó nuôi dưỡng. Khi bạn yêu một
người thì cơn đói rút đi; bạn cảm thấy được thoả mãn, thế rồi bỗng nhiên việc
chuyển động ra xa bắt đầu và các bạn tách ra. Nhưng thế thì các bạn lại cảm
thấy đói; các bạn sẽ lại tới gần hơn, cận kề hơn, để yêu, để rơi vào nhau. Bạn
ăn, thế rồi trong bốn, năm, sáu giờ, bạn quên mất thức ăn; bạn không cứ ngồi
mãi ở bếp, bạn không cứ ngồi mãi ở bếp ăn tập thể. Bạn đi xa; sau sáu giờ bỗng
nhiên bạn bắt đầu quay lại - cơn đói đang tới. Yêu có hai bộ
mặt cho nó: đói và thoả mãn. Bạn hiểu lầm yêu với đói. Một khi bạn hiểu rằng
không có ghét mà chỉ có tình huống để tạo ra đói, thế thì ghét trở thành một
phần của yêu. Thế thì nó làm giầu thêm cho yêu. Thế thì giận dữ trở thành một
phần của từ bi, nó làm giầu cho từ bi. Từ bi mà không có khả năng nào của giận
dữ sẽ bất lực, nó sẽ không có năng lượng trong nó. Từ bi với khả năng của giận
dữ có sức mạnh, sức chịu đựng. Yêu không có ghét sẽ trở thành nhạt nhẽo. Thế
thì hôn nhân sẽ có vẻ như cầm tù, bạn không thể đi xa được. Yêu có ghét thì có
sự tự do trong đó - nó chưa bao giờ trở nên nhạt nhẽo. Trong toán học
của tôi về cuộc sống thì chia lìa xảy ra bởi vì mọi ngày bạn cứ trì hoãn chúng.
Thế thì chia lìa cứ tích luỹ lại và một ngày nào đó sự kết hợp hoàn toàn bị
giết chết bởi nó, bị phá huỷ bởi nó. Nếu bạn hiểu tôi, tôi sẽ gợi ý bạn đừng
chờ đợi: mọi ngày hãy chia lìa và kết hợp lại. Nó nên là nhịp điệu cũng giống
như ngày và đêm, cơn đói và sự thoả mãn, mùa hè và mùa đông, sống và chết. Nó
nên giống như điều đó. Vào buổi sáng bạn yêu, vào buổi trưa bạn ghét. Khi bạn
yêu thì bạn thực sự yêu, bạn yêu một cách toàn bộ; khi bạn ghét thì bạn thực sự
ghét, bạn ghét một cách toàn bộ. Và bỗng nhiên bạn sẽ thấy cái đẹp của nó: cái
đẹp là trong tính toàn bộ. Ghét toàn bộ
cũng đẹp, đẹp như yêu toàn bộ; giận dữ toàn bộ cũng đẹp, đẹp như từ bi toàn bộ.
Cái đẹp là ở trong tính toàn bộ. Giận dữ một mình trở thành xấu, ghét một mình
trở thành xấu - nó chỉ là thung lũng không có đồi núi, không có đỉnh cao. Nhưng
với đỉnh cao thì thung lũng trở thành cảnh đẹp - từ đỉnh cao thung lũng trở
thành đáng yêu, từ thung lũng đỉnh cao trở thành đáng yêu. Bạn di chuyển;
dòng sông cuộc sống của bạn di chuyển giữa đôi bờ. Và dần dần, càng ngày bạn
càng hiểu nhiều hơn về toán học của cuộc sống, bạn sẽ không nghĩ rằng ghét là
chống lại yêu: nó là bù nhau. Bạn sẽ không nghĩ rằng giận dữ là chống lại từ
bi: nó là bù nhau. Thế thì bạn không nghĩ rằng nghỉ ngơi là chống lại làm việc:
nó là bù nhau - hay rằng đêm là chống lại ngày: nó là bù nhau. Chúng làm thành
tổng thể hoàn chỉnh. Bởi vì bạn đã
không yêu, nên bạn sợ ghét - bạn sợ bởi vì yêu của bạn không đủ mạnh: ghét có
thể phá huỷ nó. Bạn không chắc chắn liệu bạn có yêu hay không, đó là lí do tại
sao bạn sợ ghét và giận. Bạn biết rằng nó có thể làm tan tành hoàn toàn cả ngôi
nhà. Bạn không chắc chắn liệu ngôi nhà có thực sự tồn tại hay chỉ là tưởng
tượng, ngôi nhà tưởng tượng. Nếu nó là tưởng tượng thì ghét sẽ phá huỷ nó; nếu
nó là thực thì ghét sẽ làm cho nó mạnh thêm. Sau cơn bão im lặng hạ xuống. Sau
ghét những người yêu lại tươi tắn để rơi vào nhau - hoàn toàn tươi tắn, dường
như họ lại gặp nhau lần đầu tiên. Họ cứ gặp nhau đi gặp nhau lại, cứ lại là lần
đầu tiên. Những người yêu
nhau bao giờ cũng gặp gỡ lần đầu tiên. Nếu họ gặp lần thứ hai, tình yêu đã già
đi rồi, nhạt nhẽo rồi. Nó sẽ thành chán. Những người yêu bao giờ cũng rơi vào
tình yêu hàng ngày, tươi tắn, trẻ trung. Bạn nhìn vào người phụ nữ của mình và
bạn thậm chí không thể nào nhận ra rằng bạn đã thấy cô ấy trước đây - mới thế.
Bạn nhìn vào người đàn ông của mình và anh ta dường như là người lạ, bạn lại
rơi vào tình yêu lần nữa. Ghét không phá
huỷ yêu, nó chỉ phá huỷ cái nhạt nhẽo của nó. Nó là việc lau chùi, và nếu bạn
hiểu nó thì bạn sẽ biết ơn nó. Và nếu bạn có thể biết ơn ghét nữa, thì bạn đã
hiểu; bây giờ chẳng cái gì có thể phá huỷ được tình yêu của bạn. Bây giờ lần
đầu tiên bạn mới thực sự bắt rễ; bây giờ bạn có thể hấp thu cơn bão và có thể
được làm mạnh thêm qua nó, có thể được giầu có thêm qua nó. Bạn đừng nhìn
cuộc sống như hai mặt, đừng nhìn vào cuộc sống như xung đột - nó không phải
vậy. Tôi đã biết - nó không phải vậy. Tôi đã kinh nghiệm - nó không phải vậy.
Nó là một tổng thể, một mảnh, và mọi thứ khít trong nó. Bạn chỉ phải tìm ra
cách để chúng khít vào nhau, cách để cho phép chúng khít nhau. Cho phép chúng
khít vào nhau. Nó là một tổng thể đẹp. Và nếu bạn hỏi
tôi, nếu như có khả năng về một thế giới không có ghét, tôi sẽ không chọn nó;
nó sẽ hoàn toàn chết và chán ngán. Nó có thể ngọt ngào, nhưng quá ngọt - bạn sẽ
khao khát muối. Nếu một thế giới mà có thể không có giận dữ, tôi sẽ không chọn
nó, bởi vì chỉ từ bi mà không có giận dữ thì sẽ không có cuộc sống trong nó.
Cái đối lập cho sự giằng co, cái đối lập cho sự tôi luyện. Khi sắt thường được
đưa qua lửa, nó trở thành thép; không có lửa nó không thể thành thép được. Và
nhiệt độ càng cao, thép sẽ càng được tôi, càng mạnh. Nếu từ bi của bạn có thể
trải qua giận dữ, nhiệt độ giận dữ càng cao thì tôi luyện và sức mạnh của từ bi
càng lớn. Phật là từ bi.
Ông ấy là một chiến binh. Ông ấy xuất thân từ dòng giống kshatriya, võ
sĩ đạo. Ông ấy phải đã dẫn đến một cuộc sống rất giận dữ - và thế rồi bỗng
nhiên, từ bi. Mahavira xuất thân từ dòng giống kshatriya. Trong thực tế,
điều này có vẻ ngớ ngẩn nhưng nó có nhất quán chắc chắn cho nó: tất cả các thầy
giáo vĩ đại về bất bạo lực đều xuất thân từ dòng giống kshatriya. Không
Brahmin nào đã thuyết giảng về bất bạo lực. Chúng ta biết chỉ mỗi một Brahmin,
người được biết như một trong các avatars, Parusharam. Ông ấy là người
bạo hành nhất mà thế giới đã từng biết tới - một brahmin, người bạo hành nhất!
Hai mươi bốn tirthankaras của người Jainas tất cả đều là kshatriyas,
Phật là một kshatriya. Họ nói về bất bạo lực, từ bi; họ đã sống bạo lực,
họ biết bạo lực là gì, họ đã trải qua nó. Cho dù một brahmin cố gắng bất bạo
lực, thì cái bất bạo lực của người đó cũng không thể sâu hơn làn da. Chỉ một kshatriya,
một chiến binh, người đã sống qua lửa, mới có từ bi mạnh hay có khả năng về nó. Cho nên nhớ lấy,
nếu bên trong trái tim bạn các cực đoan đang đánh nhau, đừng chọn lựa. Cho phép
chúng cả hai có đó. Là ngôi nhà lớn, có đủ chỗ bên trong. Đừng nói, "Mình
sẽ chỉ từ bi, không giận dữ; mình sẽ chỉ yêu, không ghét." Bạn sẽ bị suy
kiệt. Hãy có căn
phòng lớn; để cả hai ở đó. Và không cần tạo ra đánh nhau giữa chúng; không có
đánh nhau. Đánh nhau tới từ tâm trí của bạn, từ giáo huấn của bạn, từ giáo dục,
ước định. Cả thế giới nói với bạn: Yêu đi. Đừng ghét. Làm sao bạn có thể yêu mà
không ghét được? Jesus nói, "Yêu kẻ thù của mình." Và tôi bảo bạn,
"Ghét người yêu của mình " - thế thì điều đó trở thành một toàn thể
đầy đủ. Bằng không thì châm ngôn của Jesus còn chưa đầy đủ. Ông ấy nói, "Yêu
kẻ thù của mình." Bạn chỉ ghét; ông ấy nói yêu nữa. Nhưng phần kia lại bị
bỏ lỡ. Tôi bảo bạn: Ghét cả bạn mình nữa; ghét cả người yêu nữa. Và đừng sợ.
Thế thì dần dần bạn sẽ thấy không có khác biệt giữa kẻ thù và bạn bè, bởi vì
bạn ghét và yêu kẻ thù và bạn yêu và ghét người bạn. Đấy sẽ chỉ là vấn đề về
đồng tiền lật sấp hay lật ngửa. Thế thì bạn là kẻ thù và kẻ thù là bạn. Thế thì
phân biệt đơn giản biến mất. Bạn đừng tạo ra
đánh nhau bên trong, cho phép chúng cả hai có đó. Chúng cả hai sẽ được cần tới
- cả hai sẽ cho bạn hai cánh; chỉ thế thì bạn mới có thể bay. Câu hỏi cuối
cùng: Lão
Tử có thể là siêu nhân, ông ấy có thể là chính tột đỉnh của chân lí, nhưng
chính tột đỉnh của ông ấy lại làm cho ông ấy thành vô dụng cho người thường như
chúng tôi. Mặt khác, liệu không thể nói được rằng Mahavira và Moses và Mohammed
là thực dụng và có ích hơn sao? Họ có ích đấy.
Họ thực dụng nhiều hơn, ích lợi nhiều hơn. Nhưng họ có ích bởi vì họ không làm
thay đổi bạn hoàn toàn; họ thoả hiệp, họ không làm biến đổi bạn toàn bộ. Họ có
vẻ có ích; họ thực dụng, điều đó là chắc chắn - Mohammed hay Moses - tuyệt đối
thực dụng bởi vì với tâm trí bạn thì họ khớp. Đó là lí do tại sao họ có vẻ thực
dụng. Bất kì điều gì bạn nghĩ là thực dụng thì họ cũng nghĩ là thực dụng. Lão Tử là hoàn
toàn khác với tâm trí bạn và đó là khả năng biến đổi. Với Mohammed bạn sẽ không
được biến đổi. Bạn có thể trở thành người Mô ha mét giáo, bạn có thể trở thành người
tốt, bạn thậm chí có thể trở thành người đức hạnh, nhưng bạn sẽ vẫn còn trên
cùng con đường mòn - chiều hướng sẽ không thay đổi. Với Mahavira bạn sẽ vẫn còn
như cũ - tốt hơn nhưng vẫn như cũ, có sửa đổi nhưng vẫn như cũ, được tinh
luyện, tô vẽ, đổi mới - nhưng vẫn như cũ. Với Lão Tử bạn sẽ bị phá huỷ hoàn
toàn và sẽ được tái sinh. Ông ấy là cái chết và sự phục sinh. Cố hiểu tại sao
nó lại là như vậy. Bạn có thể hiểu Mahavira; tính toán của ông ấy là của tâm
trí bạn - logic của ông ấy không vượt ra ngoài bạn. Đó là lí do tại sao ông ấy
có vẻ thực dụng. Và không phải là trùng hợp ngẫu nhiên mà tất cả các tín đồ của
ông ấy đều trở thành nhà kinh doanh - những người tính toán, toán học, thực
dụng. Không phải là trùng hợp ngẫu nhiên mà tất cả người Jaina đều trở thành
nhà kinh doanh: họ toán học hơn, láu cá hơn, tính toán. Và không phải là trùng
hợp ngẫu nhiên mà những người Do Thái là những người tính toán nhất trên trái
đất, cộng đồng tính toán nhất - láu cá. Người Jaina và người Do Thái gần như là
một; người Jaina là người Do Thái của Ấn Độ. Tại sao điều đó lại là như vậy?
Moses là thực dụng, Mahavira cũng thực dụng. Tôi nhớ tới một
giai thoại; nó thuộc về chính lúc bắt đầu của thế giới. Thượng đế đang
đi tìm một cộng đồng sẽ nhận mười lời răn của ông ấy. Thế giới đang trải qua
chút ít chao đảo, và đạo đức và luân lí được cần tới. Cho nên ông ấy tiếp cận
nhiều cộng đồng, nhưng chẳng ai chấp nhận cả. Ông ấy tới
người Hindus và nói, "Ta có mười điều răn tặng các ông. Đây là toàn bộ
triết lí về cuộc sống." Và người Hindus
hỏi: "Thí dụ xem nào? Nói cho chúng tôi về một lời răn..." Và Thượng đế
nói, "Chân thực. Lương thiện." Người Hindus
nói, "Điều đó sẽ là khó trong thế giới của maya. Trong ảo tưởng
này, người ta cần cái không thực nữa. Đôi khi, trong thế giới của mơ này... làm
sao người ta có thể bao giờ cũng thật được? Điều đó sẽ là khó, và tại sao tạo
ra khó khăn không cần thiết?" Ông ấy đi hỏi
các chủng tộc khác. Một số dân tộc nói rằng đòi hỏi là quá nhiều nếu không được
ngoại tình, bởi vì cuộc sống mất mọi thích thú. Ngoại tình đem lại cho cuộc
sống thích thú, tưởng tượng. Điều đó sẽ quá nhiều, thế thì cuộc sống sẽ không
đáng sống. Và Thượng đế
trở nên thất vọng. Từ khắp nơi ông ấy đều bị bác bỏ. Và tương truyền
rằng ông ấy tới Moses, và ông ấy nói: "Ta có mười lời răn dành cho ông.
" Bây giờ ông ấy sợ bởi vì đây là chủng tộc cuối cùng. "Ông có thích
lấy chúng không?" Ông ấy đã trông
đợi rằng Moses sẽ hỏi, "Những lời răn này là gì?" Nhưng ông này chẳng
bao giờ hỏi cả. Ông này hỏi: "Giá thế nào? Nó giá bao nhiêu?" Và Thượng đế
nói, "Cho không đấy." Và Moses nói,
"Thế thì tôi sẽ lấy hai bộ." Tính toán, toán
học, láu cá, thông minh - người Do Thái chỉ chiếm hai phần trăm số người trên thế
giới nhưng họ chiếm mười tám phần trăm giải thưởng Nobel! Hai phần trăm số
người và mười tám phần trăm giải thưởng Nobel! Đấy là hiện tượng rất rất khó.
Hai phần trăm số người nhưng họ chạy hầu khắp cả thế giới, và ở mọi nơi họ đều
bị bác bỏ, ở mọi nơi đều bị lên án. Nhưng họ thực dụng thế và láu cá thế. Ba
người đã cai trị cả thế kỉ này tất cả đều là người Do Thái: Marx, Freud,
Einstein. Ba người đã cai trị toàn thế giới - họ tất cả đều là người Do Thái. Tại sao điều đó
lại xảy ra như vậy? Đơn giản. Họ không phải là không thực dụng. Lão Tử là không
thực dụng. Lão Tử trong thực tế ca ngợi tính không thực dụng. Có một câu
chuyện: Lão Tử đi cùng
với các đệ tử của mình và họ đến một khu rừng nơi hàng trăm thợ mộc đang chặt
cây, bởi vì một cung điện lớn đang được xây dựng. Cho nên cả khu rừng đã gần
như bị chặt hết, nhưng mỗi một cây vẫn còn đứng đó, một cây lớn với hàng nghìn
cành - lớn đến mức mười nghìn người có thể ngồi dưới bóng của nó. Lão Tử bảo
các đệ tử đi và hỏi tại sao cái cây này lại chưa bị chặt khi cả khu rừng đã bị
chặt và đem đi. Các đệ tử đi và
họ hỏi các thợ mộc, "Sao các ông không chặt cây này?" Các thợ mộc
nói, "Cây này hoàn toàn vô dụng. Ông không thể làm được gì từ nó cả bởi vì
mọi cành của nó đều có nhiều đầu mẩu thế trong nó. Chẳng cái gì thẳng cả. Ông
không thể nào làm đồ đạc từ nó được. Ông không thể nào dùng nó làm chất đốt bởi
vì khói nguy hiểm cho mắt lắm - ông hầu như sẽ bị mù. Cái cây này hoàn toàn vô
dụng. Đó là lí do tại sao." Họ quay về. Lão
Tử cười và ông ấy nói, "Cứ giống cái cây này đi. Nếu ông muốn sống còn
trong thế giới này, cứ giống cái cây này - hoàn toàn vô dụng. Thế thì chẳng ai
sẽ hại ông. Nếu ông thẳng, ông sẽ bị chặt, ông sẽ trở thành đồ đạc trong nhà ai
đó. Nếu ông đẹp, ông sẽ bị bán ở chợ, ông sẽ trở thành món hàng. Cứ giống cái
cây này đi, hoàn toàn vô dụng. Thế thì chẳng ai có thể làm hại ông. Và ông sẽ to
lớn và bao la, và hàng nghìn người có thể tìm thấy bóng mát dưới ông. " Lão Tử đi qua
một thành. Tất cả mọi thanh niên của thành này đều bị buộc vào lính. Họ bắt gặp một
người gù. Lão Tử nói, "Đi hỏi tại sao người này đã bị bỏ lại và không bị
bắt lính." Người gù nói,
"Làm sao tôi có thể bị bắt lính được? Ông xem đấy, tôi là người gù. Tôi
chẳng dùng được." Các đệ tử trở
về và Lão Tử nói, "Nhớ lấy. Cứ giống như người gù này. Thế thì các ông sẽ
không bị bắt lính để giết người hay bị giết. Vô dụng đi." Lão Tử có logic
hoàn toàn khác với tâm trí bạn. Ông ấy nói: Là người cuối cùng. Đi vào trong
thế giới dường như bạn không hiện hữu. Vẫn còn không được biết tới. Đừng cố
gắng là người đầu tiên, bằng không bạn sẽ bị vứt đi. Đừng tranh đua, đừng cố
gắng chứng tỏ giá trị của mình. Không cần. Vẫn còn vô dụng và tận hưởng. Tất nhiên ông
ấy là không thực dụng. Nhưng nếu bạn hiểu ông ấy, bạn sẽ thấy rằng ông ấy là
người thực tế nhất ở tầng sâu hơn, trong chiều sâu - bởi vì cuộc sống là để tận
hưởng và mở hội, cuộc sống không để trở thành một thứ tiện dụng. Cuộc sống
giống nhiều với thơ ca hơn là món hàng trong chợ; nó nên giống thơ ca, bài ca,
điệu vũ, đoá hoa bên vệ đường, nở hoa chẳng vì ai nói riêng, toả hương thơm của
nó theo gió, không địa chỉ nào, không là ai cả nói riêng, chỉ tận hưởng bản
thân nó, là bản thân nó. Lão Tử nói: Nếu
bạn cố gắng rất láu cá, nếu bạn cố gắng rất hữu dụng, thì bạn sẽ bị sử dụng.
Nếu bạn cố gắng rất thực dụng, ở đâu đó chỗ này hay chỗ khác bạn sẽ bị khai
thác, bởi vì thế giới không thể bỏ người thực dụng một mình được. Lão Tử nói: Vứt
mọi ý tưởng này đi. Nếu bạn muốn là bài thơ, cực lạc, thế thì quên tiện dụng
đi. Bạn vẫn còn đúng với bản thân mình. Là bản thân mình. Những người hippy có
câu ngạn ngữ: Làm việc của bạn. Lão Tử là người hippy đầu tiên trên thế giới.
Ông ấy nói: Là bản thân bạn và làm việc của bạn và đừng bận tâm về bất kì cái
gì khác. Bạn không ở đây để bị bán. Cho nên đừng nghĩ tới tiện dụng, chỉ nghĩ
về phúc lạc của bạn. Phúc lạc đi, và nếu cái gì đó tuôn chảy ra từ phúc lạc của
bạn thì nó đều tốt - chia sẻ nó. Nhưng đừng bó buộc bản thân mình chỉ là một
thứ tiện dụng bởi vì đấy là cách tự tử xảy ra. Người ta tự giết mình. Đừng tự tử. Mọi thầy giáo
trên thế giới sẽ thực tế hơn Lão Tử, đó là lí do tại sao họ có nhiều hấp dẫn.
Đó là lí do tại sao họ có tổ chức lớn: người Ki tô giáo - gần nửa thế giới đã
trở thành người Ki tô giáo - người Mô ha mét giáo, Hindu giáo, Jaina giáo, Sikh
giáo - họ tất cả đều là kẻ tiện dụng. Lão Tử đứng một mình, đơn độc. Lão Tử
đứng trong sự tồn tại độc tấu. Nhưng Lão Tử là
hiếm hoi và duy nhất. Nếu bạn có thể hiểu ông ấy thì bạn cũng có thể trở thành
hiếm hoi và duy nhất. Và cách thức là thành bình thường - thế thì bạn trở thành
phi thường; cách thức chỉ là người cuối cùng, và thế thì bỗng nhiên bạn là
người đầu tiên; cách thức là không công bố, không kể công, và thế thì chẳng ai
có thể lấy điều đó khỏi bạn được; cách thức là tồn tại như không hiện hữu, như không
ai cả, và thế thì theo một cách bí ẩn và tinh tế, bạn và chỉ bạn mới trở thành
ai đó - ai đó mà toàn thể sự tồn tại cảm thấy được ân huệ với, cảm thấy được ân
huệ bởi, ai đó mà với người đó toàn thể sự tồn tại mở hội. Về tính cách của đạo: Đạo là mạch hổng, mà dùng mãi không cạn, Không thể dò được. Về thần hang: Thần hang không chết. Nên gọi mẹ nhiệm mầu. Cửa của mẹ nhiệm mầu Gốc rễ của đất trời. Dằng dặc, dằng dặc, Dường như còn hoài. Kéo ra từ nó Dùng hoài không hết. Về tính cách của đạo Thế giới của
Lão Tử là hoàn toàn khác với thế giới của triết học, tôn giáo, luân lí. Nó thậm
chí không phải là cách sống. Lão Tử không dạy điều gì đó - ông ấy là điều gì
đó. Ông ấy không phải là người thuyết giảng, ông ấy là sự hiện diện. Ông ấy
không có học thuyết cho bạn - ông ấy chỉ có bản thân mình đưa ra và chia sẻ. Nếu như ông ấy
là triết gia, mọi sự đã dễ dàng - bạn có thể đã hiểu được ông ấy. Ông ấy là bí
ẩn bởi vì ông ấy không phải là triết lí. Ông ấy thậm chí không là phản triết
lí, bởi vì cả hai đều phụ thuộc vào logic. Ông ấy là ngớ ngẩn. Triết lí phụ
thuộc vào logic, phản triết lí cũng phụ thuộc vào logic - cho nên phản triết lí
cũng không là gì ngoài triết lí. Nagarjuna, một nhà phản triết lí vĩ đại, cũng
vẫn là triết gia. Ông ấy nói, ông ấy biện luận, ông ấy thảo luận theo cùng cách
như bất kì triết gia nào. Ông ấy thảo luận chống lại triết lí, biện luận chống
lại triết lí, nhưng luận cứ là một. Và logic là đĩ. Có một câu
chuyện; một trong đệ tử vĩ đại nhất của Lão Tử. Liệt Tử, kể lại nó... Lão Tử,
Trang Tử và Liệt Tử - họ là ba cột trụ của thế giới Đạo. Lão Tử nói theo kiểu
trào phúng, cách ngôn; ông ấy thậm chí không trau chuốt. Nhưng Liệt Tử và Trang
Tử, các đệ tử của Lão Tử, không thể biện luận. Họ cứ kể chuyện ngụ ngôn, chuyện
tường thuật, tương tự. Từ này phải thường xuyên được ghi nhớ: Đạo không thể
được giải thích, chỉ sự tương tự mới có thể được nêu - những chỉ dẫn. Cho nên
một trái tim đồng cảm sâu sắc là cần thiết - vấn đề không phải là tâm trí chút
nào. Liệt Tử thuật
lại một câu chuyện, rằng trong thành của ông ấy có lần chuyện xảy ra: người
giầu nhất thành đi qua sông còn dòng sông thì ngập lụt. Và một cơn bão lớn nổi
lên ngay giữa dòng nước và con thuyền bị lật úp. Bằng cách nào đó người lái đò
thoát, nhưng ông ta không thể nào cứu được người nhà giầu này. Người nhà giầu
chết đuối. Một cuộc tìm kiếm qui mô được tiến hành. Một ngư dân tìm
ra cái xác - cái xác chết - nhưng anh ta lại đòi một giá quá cao cho cái xác đó
và sẽ không trao trả với giá kém hơn. Gia đình nọ không sẵn lòng trả nhiều tiền
thế cho cái xác chết cho nên họ tới một nhà nho, một ông đồ, một người am hiểu
luật pháp để hỏi cần phải làm gì. Liệu có thể làm được cái gì đó về mặt luật
pháp hay không? Ông đồ nói, "Ông
đừng lo nghĩ. Trước hết, trả tiền công cho tôi và thế rồi tôi sẽ bày cách cho
ông." Thế là ông đồ nhận tiền thù lao và rồi nói, "Ông cứ giữ giá ấy.
Ông ta không thể bán được cái xác chết đó cho bất kì ai khác cả; ông ta sẽ phải
nhường bước, bởi vì không ai sẽ mua cái xác đó - cho nên ông cứ giữ giá
ấy." Hau, ba ngày
trôi qua. Gia đình này theo lời khuyên đó. Ngư dân này bắt đầu lo nghĩ bởi vì
bây giờ cái xác đã bốc mùi, và ông ta bắt đầu cảm thấy rằng bây giờ tốt hơn cả
là nhường bước và chấp nhận bất kì điều gì họ trả. Nó đã trở thành vấn đề,
không ai khác sẽ mua cái xác đó - ông ta cũng cảm thấy điều đó. Cho nên làm sao
ông ta mặc cả được? Nhưng trước khi quyết định điều gì, ông ta cũng tới người
am hiểu pháp luật - cũng người đó. Ông này nói,
"Trước hết hãy trả tiền công cho ta đã và ta sẽ trao cho ông lời
khuyên." Ông ta nhận tiền công và nói, "Ông cứ giữ cái giá ấy. Gia
đình kia không thể mua được cái xác đó từ bất kì đâu khác - họ sẽ phải nhường
bước." Logic là đĩ, đồ
mãi dâm. Nó có thể ủng hộ, nó có thể chống đối. Nó không thuộc vào ai cả. Cho
nên logic có thể ủng hộ cho triết lí, và logic có thể chống lại triết lí. Lão Tử không
chống lại phản triết lí bởi vì ông ấy không phải là nhà logic chút nào. Phật là
người phản triết lí: ông ấy biện minh chống lại nó. Lão Tử thì không. Ông ấy
không biện minh chút nào, ông ấy đơn giản phát biểu. Ông ấy không chạy theo bạn
để thuyết phục bạn - không, Lão Tử không thế. Mọi người khác dường như theo
cách nào đó đang cố gắng để thuyết phục bạn nhưng Lão Tử thì không. Ông ấy đơn
giản phát biểu và không bận tâm liệu bạn có được thuyết phục hay không. Nhưng sức cám
dỗ của ông ấy thì lớn. Ông ấy cám dỗ. Ông ấy khuyên nhủ. Không cố gắng thuyết
phục, ông ấy thuyết phục bạn sâu bên dưới trong trái tim và bạn không thể bác
bẻ được ông ấy bởi vì ông ấy không nêu luận cứ nào. Đó là cái đẹp và đó là sức
mạnh của ông ấy. Ông ấy đơn giản phát biểu một sự kiện. Và ông ấy không tìm
kiếm việc chuyển đổi, và ông ấy không sẵn sàng làm bạn thành một tín đồ -
không. Cho dù bạn có sẵn sàng, ông ấy cũng sẽ không chấp nhận bạn. Nhưng ông ấy
cám dỗ. Cám dỗ của ông ấy là rất tinh tế và trực tiếp. Cám dỗ của ông ấy mang
nữ tính. Có hai kiểu cám
dỗ. Khi đàn ông cám dỗ đàn bà, anh ta năng nổ. Anh ta cố gắng theo đủ mọi cách,
nghĩ đủ mọi kế, dương bẫy; anh ta làm mọi nỗ lực mà mình có thể làm được. Đàn
bà cám dỗ theo cách hoàn toàn khác. Cô ấy không giở mưu mô, cô ấy không dương
bẫy nào, cô ấy không theo đuổi người đàn ông; trong thực tế, cô ấy giả vờ rằng
cô ấy không quan tâm gì mấy. Đàn ông có thể thất bại, nhưng đàn bà chẳng bao
giờ thất bại - đó là cám dỗ nữ tính. Cái bẫy của cô ấy rất tinh vi. Bạn không
thể thoát khỏi nó được; nó không có lỗ hổng. Và chẳng cần săn đuổi bạn, cô ấy
vẫn cứ săn đuổi bạn. Cô ấy ám ảnh bạn trong giấc mơ - chưa bao giờ gõ cửa bạn,
nhưng ám ảnh bạn trong giấc mơ; chưa bao giờ biểu lộ bất kì quan tâm nào nhưng
trở thành mơ tưởng sâu sắc nhất trong con người bạn. Đó là sự thành thạo nữ
tính. Và Lão Tử là người tin tưởng lớn lao vào tâm trí nữ tính. Chúng ta sẽ bắt
gặp điều đó. Cho nên nhớ...
thế giới của Lão Tử không phải là logic mà là tương tự. Logic là rõ ràng, trực
tiếp - hoặc bạn phải được thuyết phục hoặc bạn phải thuyết phục đối phương;
hoặc bạn phải theo nó, trở thành tín đồ, hay bạn trở thành kẻ thù. Bạn phải
chọn. Với logic, tâm trí bạn phải tích cực. Điều đó là dễ dàng, chẳng cái gì
khó về điều đó cả. Mọi người đều biện luận. Nhiều hay ít, mọi người đều là nhà
logic; giỏi hay tồi, mọi người đều là triết gia. Nếu bạn muốn
hiểu Lão Tử, cách thức cũ không có ích. Bạn sẽ phải gạt logic của mình sang bên
bởi vì ông ấy không săn đuổi bạn như nhà logic, ông ấy không biện minh chống
lại bạn - nếu bạn biện minh chống lại ông ấy, điều đó sẽ thành khôi hài bởi vì
ông ấy có biện minh gì đâu. Ông ấy đơn giản đưa ra sự tương tự. Tương tự là gì?
Nếu tôi có kinh nghiệm nào đó mà bạn không có, thế thì làm sao tôi mô tả nó cho
bạn? Cách duy nhất là qua tương tự: một kinh nghiệm nào đó bạn có - nó không
đích xác là cái bạn có - nó không đích xác đúng là cái tôi có, nhưng sự tương
tự nào đó tồn tại. Cho nên tôi nói rằng nó giống như kinh nghiệm mà bạn có -
không đích xác giống hẳn, nhưng sự tương tự nhỏ tồn tại. Việc hiểu sự tương tự
nhỏ đó trở thành cây cầu. Đó là lí do tại
sao người đã đi tới cực lạc tối thượng lại nói điều đó giống như hai người yêu
nhau trong vòng ôm sâu sắc, nó giống như hai người yêu trong niềm cực thích sâu
sắc, nó giống như khi hành động dục đi tới đỉnh. Điều này là tương tự. Họ không
nói rằng nó là điều này. Không. Họ không nói điều gì như thế cả. Họ đơn giản
nói rằng kinh nghiệm của bạn chẳng là gì khác hơn điều có thể trở thành cây
cầu. Jesus nói,
"Thượng đế là tình yêu." Đây là tương tự. Trong cuộc sống của bạn thì
tình yêu là cao nhất. Cái thấp nhất của điều thiêng liêng và cái cao nhất của
con người gặp gỡ; đó là biên giới. Cái cao nhất mà nhân loại có thể đạt tới
được là tình yêu; nó là cái thấp nhất đối với điều thiêng liêng, chỉ là bàn
chân của điều thiêng liêng. Nhưng từ đó, nếu bàn chân được tìm thấy, thì bạn có
thể tìm thấy toàn bộ Thượng đế. Đó là lí do tại sao Jesus nói, "Tình yêu là
Thượng đế." Không phải là tình yêu là Thượng đế, nhưng trong kinh nghiệm
của bạn thì không còn cái gì khác hơn tồn tại để qua đó có thể làm điều tương
tự. Cho nên đừng
xét Lão Tử theo lời và theo nguyên văn; chúng tất cả đều là tương tự cả. Nếu
ông ấy nói "Thần hang," thì đây là tương tự. Ông ấy đang nói điều gì
đó - không đích xác là về hang động, bởi vì hang động thì bạn biết - qua hang
động ông ấy cho bạn cảm giác về cái gì đó mà bạn không biết. Từ cái bạn biết
ông ấy đang đem bạn tới cái mà bạn không biết. Tương tự nghĩa là một tham chiếu
tới cái biết để giải thích cho cái chưa biết. Khi ông ấy nói "Thần
hang", thì ông ấy ngụ ý nhiều điều. Tương tự bao
giờ cũng rất hàm súc. Logic bao giờ cũng chật hẹp, còn tương tự thì rộng rãi,
nữ tính. Bạn càng tìm nhiều trong nó, bạn càng thấy nhiều qua nó. Logic còn có
thể cạn kiệt được chứ tương tự thì không bao giờ. Đó là lí do tại sao những
cuốn sách như Đạo Đức Kinh hay Bhagavadgita hay Bài thuyết
giảng trên núi của Jesus bạn có thể cứ đọc và đọc và đọc mãi - chúng là
không cạn. Bạn có thể cứ tìm ra ngày một nhiều bởi vì chúng là tương tự. Bạn
càng trưởng thành, bạn càng thấy ra trong chúng; bạn càng thấy ra trong chúng,
bạn càng trưởng thành; bạn càng trưởng thành, bạn lại càng thấy ra nữa. Cho nên
những cuốn sách này không phải là sách: chúng có cuộc sống riêng của mình,
chúng là một hiện tượng sống. Và bạn không thể đọc được chúng một lần rồi kết
thúc với chúng; không, đấy không phải là cách thức. Một cuốn sách logic có thể
được đọc một lần, được hiểu, bạn có thể vứt nó vào đống rác. Nhưng một cuốn
sách kiểu tương tự thì mang tính thơ ca: nó thay đổi với tâm trạng của bạn, nó
thay đổi với hiểu thấu của bạn, nó thay đổi với trưởng thành của bạn. Nó đem
lại cho bạn những tầm nhìn khác nhau theo trạng thái tâm trí của bạn. Tương tự vẫn
còn nguyên - chẳng hạn, "Tình yêu là Thượng đế." Một người chưa bao
giờ biết điều gì khác ngoại trừ dục và người cứ nghĩ rằng dục là tình yêu... Tại phương Tây
điều này đang xảy ra quá nhiều. Bây giờ với hành động dục họ nói là "làm tình."
Việc "làm tình" này là hoàn toàn ngu ngốc - bạn không thể làm tình
yêu được, tình yêu không phải là hành động, nó là trạng thái của sự hiện hữu -
bạn có thể trong nó nhưng bạn không thể làm nó được. Bạn rơi vào trong nó, nó
không phải là nỗ lực. Dục có thể được làm, không phải là tình yêu. Gái mãi dâm
có thể cho bạn dục, không phải tình yêu - bởi vì làm sao bạn làm tình yêu theo
tiền được? Không thể được! Làm sao bạn có thể làm tình yêu vì tiền được? Nó tới
theo cách riêng của nó. Nó có những cách thức bí ẩn riêng. Bạn không thể kiểm
soát được nó, bạn chỉ có thể bị nó sở hữu. Dục có thể được làm chứ không phải
là tình yêu. Bạn có thể làm dục nhưng bạn không thể làm tình yêu - bạn chỉ có
thể trong tình yêu... Cho nên người đàn ông hay đàn bà mà nghĩ rằng dục là tình
yêu và hành động dục là hành động của tình yêu thì sẽ nghĩ, khi Jesus nói,
"Tình yêu là Thượng đế" - và tất nhiên không có cách nào khác với họ
để nghĩ bởi vì đây là sự tương tự của họ - rằng dục là Thượng đế. Tại Thuỵ Điển
bây giờ họ đang làm phim về cuộc sống tình yêu của Jesus bởi vì họ nghĩ rằng
một người mà nói, "Tình yêu là Thượng đế" thì phải ngụ ý rằng dục là
Thượng đế. Và phim này sắp sửa là một trong những hành động báng bổ nhất, xấu
xa nhất có thể có, bởi vì trong phim này họ đang cố gắng mô tả một Jesus đang
làm tình theo nghĩa của họ - đi vào hành động dục. Bây giờ không quốc gia nào
sẵn sàng cho phép họ làm phim đó. Nhưng họ sẽ làm nó - bây giờ khó mà cản họ
lại được. Cuộc sống tình yêu của Jesus với họ có nghĩa chỉ là cuộc sống dục. Bạn hiểu việc
tương tự theo quan điểm của mình. Sự tương tự có thể cho bạn chỉ nhiều tới mức
bạn có thể đặt vào trong nó. Một người đã yêu, không chỉ về mặt dục mà toàn
bộ... bởi vì dục là hiện tượng cục bộ, vật lí; không có gì sai trong nó, nhưng
nó không là toàn bộ. Khi nó trở thành toàn bộ và bạn yêu một người trong tính
toàn bộ, không chỉ về mặt dục - sự hấp dẫn không chỉ về vật lí mà cả về tâm
linh - không phải là thân thể bị chối bỏ trong nó mà sự hấp dẫn là lớn hơn, và
sự hấp dẫn thân thể chỉ là một vòng nhỏ trong nó - thế thì bạn sẽ hiểu
"tình yêu là Thượng đế" theo cách khác. Sự tương tự sẽ trở nên sâu
sắc hơn cho bạn. Nhưng nếu bạn
đã biết tới tình yêu ở ngoài dục, mà trong đó dục đơn giản biến mất và toàn bộ
năng lượng dục được biến đổi thành cực lạc - nếu bạn đã biết tình yêu đó thế
thì "tình yêu là Thượng đế" sẽ có một nghĩa khác với bạn. Cho nên tương
tự phụ thuộc vào bạn. Và một cuốn sách tương tự như của Lão Tử thì phải được
đọc đi đọc lại - nó là công trình cuộc sống. Bạn không thể nào đơn giản đọc nó
trong cuốn sách bìa mỏng rồi vứt sách đi. Nó là kho báu được mang đi; nó là
công trình cả đời; chính việc đi vào điều tương tự là kỉ luật cả đời. Logic là nông
cạn. Bạn có thể hiểu Aristotle, chẳng có gì nhiều. Nhưng khi bạn tới Lão Tử ...
lần đầu tiên bạn thậm chí có thể bỏ lỡ cái là cái gì đó, nhưng dần dần Lão Tử
sẽ ám ảnh bạn. Sự hấp dẫn của ông ấy mang nữ tính. Dần dần ông ấy sẽ bắt giữ bản
thể của bạn - bạn chỉ phải theo ông ấy. Trong logic bạn phải tranh đấu; trong
tương tự bạn phải đồng cảm, bạn phải cho phép nó, chỉ thế thì sự tương tự mới
nở hoa. Cho nên chỉ trong đồng cảm và kính phục sâu sắc, trong niềm tin và tin
cậy sâu sắc, thì Lão Tử mới có thể được hiểu. Không có cách khác. Nếu bạn tới Lão
Tử thông qua tâm trí, bạn sẽ không bao giờ tới được ông ấy. Bạn sẽ đi lòng vòng
và lòng võng mãi - bạn sẽ chẳng bao giờ chạm vào sự hiện hữu của ông ấy. Tới
ông ấy qua trái tim. Sự tương tự là dành cho trái tim; logic là cho tâm trí. Lão Tử mang
nhiều tính nhà thơ hơn. Nhớ lấy điều đó. Bạn không biện minh với nhà thơ - bạn
lắng nghe thơ ca, bạn hấp thu thơ ca, bạn nghiền ngẫm nó, bạn để nó đi vào bên
trong sự hiện hữu của mình, bạn để nó trở thành một phần của máu và xương bạn,
bạn tiêu hoá nó. Bạn quên lời, bạn quên tính thơ ca hoàn toàn, nhưng hương thơm
trở thành một phần của bạn. Bạn có thể không nhớ bài thơ đang hát về điều gì
nhưng bài ca đã được giữ lại: hương vị của nó, hương thơm, đã đi vào bạn. Bạn
đã trở nên mang thai. Lão Tử có thể
được hiểu chỉ nếu bạn trở nên mang thai với ông ấy. Cho phép ông ấy. Mở cửa ra.
Ông ấy thậm chí sẽ không gõ cửa, bởi vì ông ấy không năng nổ. Ông ấy sẽ không
cố gắng biện minh bởi vì ông ấy không tin vào biện luận. Ông ấy không phải là
con người tâm trí chút nào, ông ấy tuyệt đối là con người trái tim. Ông ấy đơn
giản, sự tương tự của ông ấy là sự tương tự của dân làng - nhưng sống động, toả
sáng, sinh động. Nếu bạn cho phép ông ấy, bỗng nhiên bạn sẽ được biến đổi - chỉ
một hiểu biết, hiểu biết của trái tim, và bạn sẽ được ông ấy làm cho biến đổi. Điều thứ hai
cần nhớ là ở chỗ Lão Tử không phải là con người tôn giáo theo nghĩa bình
thường. Ông ấy không phải là nhà thượng đế học. Ông ấy không là con người tôn
giáo chút nào theo cách bạn hiểu thế giới. Ông ấy chưa bao giờ đi tới đền chùa,
chưa bao giờ tôn thờ, bởi vì ông ấy thấy rằng toàn bộ sự tồn tại này là ngôi
đền và toàn bộ cuộc sống này là sự tôn thờ. Ông ấy không là con người phân
mảnh. Ông ấy không phân chia cuộc sống, ông ấy sống nó như dòng sông không phân
chia. Bạn phân chia:
một giờ trong đền, mọi tuần bạn đều tới nhà thờ. Chủ nhật là ngày tôn giáo và
dần dần tôn giáo trở thành chuyện ngày chủ nhật - sáu ngày làm việc nó không
được động tới. Bạn rất tinh ranh! - Chủ nhật là ngày nghỉ, chủ nhật là ngày tôn
giáo, khi bạn không đi làm. Bạn có thể lương thiện dễ dàng khi bạn không làm
việc; bạn có thể lương thiện dễ dàng khi bạn không trong cửa tiệm; bạn có thể
lương thiện dễ dàng khi bạn nghỉ ngơi dưới ánh mặt trời; bạn có thể lương thiện
dễ dàng khi bạn lắng nghe buổi thuyết giảng trong nhà thờ. Điều đó không là gì
cả, không có vấn đề gì. Sáu ngày làm việc, chúng mới tạo ra vấn đề thật - thế
thì bạn không thể tôn giáo được. Cho nên đây chỉ là thủ đoạn mà thôi. Chủ nhật
này là một thủ đoạn để tránh tôn giáo. Bạn đã tạo ra căn phòng kín gió
trong cuộc sống của mình. Tôn giáo có chỗ riêng của nó vào ngày chủ nhật, và
thế thì, thế thì bạn được tự do trong sáu ngày để phi tôn giáo nhất có thể
được. Người Hindus có
cách riêng của họ, người Mô ha mét giáo có cách riêng của họ, người Ki tô giáo
có cách riêng của họ: cách tránh tôn giáo. Và những người này bạn gọi là tôn
giáo! Họ là những người tránh né. Họ tới đền chùa và họ cầu nguyện. Khi họ cầu
nguyện nhìn vào họ, vào khuôn mặt họ. Họ trông đẹp thế. Nhưng khi ra khỏi nhà
thờ hay đền chùa, họ không còn như thế nữa. Họ khác đi. Tolstoy đã viết
một truyện ngắn, không thực là truyện nữa. Nó là một sự kiện, nó đã xảy ra, một
sự vụ. Tolstoy một hôm
tới nhà thờ, vào sáng sớm. Trời còn tối và ông ấy ngạc nhiên khi thấy rằng
người giầu nhất thành phố đang cầu nguyện và thú tội trước Thượng đế và nói
rằng mình là kẻ tội lỗi. Tất nhiên Tolstoy trở nên quan tâm. Và ông này đang kể
lại tội lỗi của mình: cách ông ấy đã lừa vợ mình và đã không trung thành, và
cách ông ấy đã trong quan hệ và chuyện tình với các phụ nữ khác, vợ người khác. Tolstoy trở nên
bị hấp dẫn. Ông ấy lại mỗi lúc một gần hơn. Và ông này đang kể lại với nhiều
thích thú, thú tội với Thượng đế: "Con là kẻ tội lỗi và chừng nào ngài còn
chưa tha thứ cho con thì không có cách nào cho con cả. Và con đã bóc lột làm
sao! Và con đã cướp bóc mọi người làm sao! Con là kẻ tội lỗi và con không biết
cách thay đổi bản thân mình. Chừng nào ân huệ của ngài còn chưa giáng xuống thì
không có khả năng nào cho con cả." Và nước mắt cứ chảy ròng ròng. Thế rồi ông ta
bỗng nhiên nhận biết rằng có ai đó khác ở đó. Ông ta nhìn. Ông ta nhận ra - vào
lúc này trời đã hửng sáng - và ông ta trở nên rất giận dữ và ông ta nói với
Tolstoy: "Nhớ lấy! Những điều này tôi đã nói cho Thượng đế, không phải cho
ông. Và nếu ông nói những điều này cho bất kì ai thì tôi sẽ lôi ông ra toà về
tội bôi nhọ danh dự tôi. Cho nên nhớ rằng ông chưa bao giờ nghe nói gì về những
điều này cả. Đây là đối thoại cá nhân giữa tôi và Thượng đế và tôi không biết
rằng ông có đó." Một khuôn mặt
khác trước Thượng đế và một khuôn mặt hoàn toàn khác trước thế giới.... Tôn
giáo là một ngăn - khép kín. Đây là thủ đoạn để tránh nó; đây là cách để mang
tính tôn giáo mà không tôn giáo chút nào - sự lừa dối. Lão Tử là không
tôn giáo chút nào theo cách đó. Ông ấy là người đơn giản. Ông ấy thậm chí không
nhận biết rằng mình mang tính tôn giáo - làm sao một người tôn giáo lại có thể
nhận biết rằng mình mang tính tôn giáo? Tôn giáo cũng giống như việc thở với
người đó. Bạn trở nên nhận biết về việc thở chỉ khi cái gì đó đi sai, khi khó thở,
khi bạn bị hen hay loại trục trặc gì đó về thở. Bằng không thì bạn sẽ chẳng bao
giờ biết, chẳng bao giờ trở nên nhận biết rằng bạn thở. Bạn đơn giản thở, nó tự
nhiên thế. Lão Tử mang
tính tôn giáo một cách tự nhiên, ông ấy thậm chí không nhận biết về điều đó.
Ông ấy không giống như các thánh nhân của bạn, những người thực hành tôn giáo.
Không, ông ấy không thực hành: ông ấy cho phép tính toàn bộ chiếm quyền sở hữu.
Ông ấy sống nó, nhưng ông ấy không thực hành nó. Tôn giáo không phải là kỉ luật
với ông ấy, nó là sự hiểu biết sâu sắc. Nó không phải là cái gì đó bị áp đặt từ
bên ngoài, nó là cái gì đó tuôn chảy từ bên trong. Không có một chút khoảng
cách giữa ông ấy và tôn giáo. Ông ấy không
mang tính tôn giáo theo nghĩa bạn vẫn hiểu. Ông ấy không phải là thánh nhân bởi
vì ông ấy chưa bao giờ thực hành tính thánh thiện cả. Ông ấy không bó buộc nó;
nó không phải là tính cách của ông ấy. Con người tôn giáo thực không có tính
cách tôn giáo - không thể có nó được bởi vì tính cách là một phương thức của
phi tôn giáo. Cố hiểu điều đó: bạn phát triển một tính cách bởi vì bạn sợ bản
thể của mình; bạn phát triển đạo đức bởi vì bạn sợ cái bất tử bên trong; bạn tự
buộc bản thân mình theo một cách sống nào đó bởi vì bạn biết rằng nếu bạn sống
một cách tự phát và tự nhiên, bạn sẽ trở thành tội nhân, không phải là thánh
nhân. Bạn sợ bản thể của mình; bạn áp đặt tính cách lên khắp xung quanh mình.
Tính cách là cái áo giáp; nó bảo vệ bạn tách khỏi người khác và và nó bảo vệ
bạn tách ra với chính bản thân mình. Nó là thành luỹ; bạn đi vào trong nó. Bạn
nói chân lí không phải bởi vì bạn đã đi tới biết phúc lạc của nó; bạn nói chân
lí bởi vì bạn đã được dạy rằng nếu bạn không nói, thì bạn sẽ bị ném vào địa
ngục. Các nhà thần
học của bạn đã cố gắng hình dung ra Thượng đế của bạn như kẻ tàn bạo nhất có
thể được - ném mọi người vào địa ngục, vào trong lửa cháy, và trong dầu sôi.
Thượng đế này dường như là kẻ tàn bạo. Ông ta cần trị liệu tâm lí lớn - ông ta
dường như là kẻ tra tấn lớn lao nhất. Bạn sợ địa ngục
và bạn tham vọng cõi trời - củ cà rốt cõi trời liên tục được treo ngay trước
bạn. Và tính cách của bạn chỉ là phương tiện giữa cõi trời và địa ngục - bảo vệ
chống lại địa ngục và nỗ lực để đạt tới tham vọng cõi trời. Làm sao bạn có thể
mang tính tôn giáo được nếu bạn sợ thế và tham vọng thế? Con người tôn
giáo không tham vọng chút nào. Tham vọng là điều đầu tiên bị vứt khỏi người tôn
giáo, bởi vì tham vọng có nghĩa là trong tương lai còn người tôn giáo bao giờ
cũng ở đây và bây giờ. Người đó tồn tại trong hiện tại, người đó không có tương
lai nào để bận tâm cả. Và người đó không sợ hãi theo bất kì cách nào. Người đó
sống một cách toàn bộ thế, làm sao người đó có thể sợ hãi được? Sợ tới bởi vì
bạn sống một cách phân mảnh. Bạn đã không sống chút nào, đó là lí do tại sao có
sợ. Cố hiểu vấn đề
này. Người ta sợ chết - tại sao? Bạn có biết rằng chết là xấu không? Làm sao
bạn biết được điều đó khi bạn chưa chết? Bạn có biết rằng chết sắp sửa là điều
tồi tệ hơn cuộc sống không? Làm sao bạn có thể biết được? Nó có thể còn tốt hơn
cuộc sống. Tại sao bạn sợ chết mà không biết? Làm sao người ta có thể sợ cái
không biết? Điều đó dường như là không thể được. Bạn có thể sợ chỉ cái đã biết.
Làm sao bạn lại có thể sợ cái không biết, cái không quen thuộc mà bạn không
biết chút nào? Không, bạn không sợ chết. Bạn đã đặt sai nỗi sợ của mình vào cái
chết. Bạn thực sự sợ chết bởi vì bạn đã không có khả năng sống - nỗi sợ có liên
quan tới cuộc sống chưa được sống. Bạn sợ rằng bạn đã không có khả năng sống,
yêu và chết đang tới gần, cái sẽ chấm dứt mọi thứ. Bạn sẽ không còn nữa, và bạn
vẫn còn chưa có khả năng để yêu. Bạn giống như cây
vẫn còn chưa ra hoa mà tiều phu đang tới. Cây cảm thấy hoảng sợ, không biết
điều gì sẽ xảy ra. Nỗi sợ không tới từ cái chết, nỗi sợ đang tới từ cái gì đó đã
không xảy ra. Cây biết rõ rằng quả còn chưa kết, hoa còn chưa ra, nó còn chưa
nở hoa. Cây chưa biết tới mùa xuân; nó còn chưa nhảy múa với gió, nó còn chưa
yêu, nó còn chưa sống. Cuộc sống chưa được sống này tạo ra nỗi sợ... và tiều
phu đang tới. Và tiều phu sẽ tới và sẽ không có tương lai. Chết nghĩa là không
có tương lai. Quá khứ đã qua, và không tương lai - còn hiện tại thì chật hẹp
thế. Sợ chiếm lĩnh, bạn run rẩy. Sợ bao giờ cũng
là về cái chưa được sống. Nếu bạn sống một cách toàn bộ, bạn chẳng sợ cái gì
cả. Nếu cái chết tới với tôi ngay bây giờ, tôi đã sẵn sàng. Tôi đã sống. Mọi
thứ đều đầy đủ, không cái gì là không đầy đủ. Cái chết không thể phá huỷ được.
Nếu cái gì đó còn chưa đầy đủ thế thì tôi mới muốn cái chết đợi thêm chút xíu,
nhưng mọi thứ đều đầy đủ cả. Tôi đã tắm sáng nay, tôi đã nói với các bạn, bất
kì cái gì định xảy ra thì đã xảy ra rồi. Tôi hoàn toàn sẵn sàng. Nếu cái chết
tới, tôi đã sẵn sàng, tôi sẽ thậm chí không nhìn lại một lần bởi vì chẳng còn
gì để nhìn cả, mọi thứ đều đã đầy đủ. Bất kì khi nào bất kì cái gì cũng đều đầy
đủ thì bạn tự do với nó. Một cuộc sống đã được sống thực sự - người ta trở nên
tự do với nó. Một cuộc sống chưa được sống - bạn không bao giờ có thể được tự
do với nó. Bạn có thể vào hang cốc, lên Himalayas, lên Tây Tạng - bạn có thể đi
bất kì đâu, nhưng bạn sẽ không bao giờ được tự do, và nỗi sợ bao giờ cũng sẽ có
đấy. Sợ hãi và tự do
không thể cùng tồn tại được. Khi tự do tới - và tự do chỉ tới khi bạn đã sống,
đã nở hoa, mọi thứ đều đầy đủ và kết thúc - thế thì bạn còn khao khát sống lâu
hơn nữa làm gì? Thậm chí đến một khoảnh khắc cũng chẳng cần. Thế thì nỗi sợ
biến mất. Tôn giáo của
bạn dựa trên sợ hãi. Trong thực tế nó không phải là tôn giáo. Nó là giả tạo, nó
là rởm, nó chỉ là lừa dối. Lão Tử không mang tính tôn giáo theo nghĩa bạn mang
tính tôn giáo hay bạn cảm thấy người khác mang tính tôn giáo. Lão Tử mang tính
tôn giáo theo một cách hoàn toàn khác. Phẩm chất của ông ấy là khác. Ông ấy đơn
giản, ông ấy sống một cách hồn nhiên khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia. Ông
ấy cũng không nói về Thượng đế - bởi vì để làm gì? Thượng đế không phải là một
từ. Làm sao bạn có thể nói về Thượng đế được? Lão Tử sống Thượng đế, Lão
Tử không nói về Thượng đế. Lão Tử tận hưởng Thượng đế, Lão Tử mở hội về Thượng
đế, đấy không phải là hiện tượng não bộ. Lão Tử nhảy múa. Lão Tử uống Thượng
đế. Lão Tử sống Thượng đế. Cho nên phỏng có ích gì mà nói về Thượng đế? Đây là quan sát
của tôi: rằng mọi người bao giờ cũng nói về những điều họ không biết. Có một câu
chuyện Sufi: Một nhà vua vĩ
đại hay tới một nhà tu khổ hạnh fakir, một người ăn xin huyền môn. Nhưng ông ấy
ngạc nhiên bởi vì bất kì khi nào ông ấy tới thì nhà huyền môn này lại nói về
tiền bạc, vương quốc, chính trị, còn nhà vua lại nói về Thượng đế, thiền, tôn
giáo. Thế là một hôm
nhà vua nói, "Ta xin lỗi, nhưng điều này ta không thể nào hiểu nổi. Ta tới
đây để nói về Thượng đế, tôn giáo, thiền, samadhi. Và điều này thật kì
cục - rằng ta, một con người của thế gian, tới nói về samadhi, chứng
ngộ, còn ông, một người tôn giáo - cứ giả sử là tôn giáo đi, bởi vì bây giờ ta
có hoài nghi - bất kì khi nào ta tới, ông bao giờ cũng nói về vương quốc và
chính trị và tiền bạc và cả nghìn thứ, nhưng bao giờ cũng về thế gian. Ông giải
thích điều này thế nào?" Ông fakir cười.
Ông ấy nói, "Chẳng có gì để giải thích cả. Điều đó là đơn giản. Ông nói về
những điều ông không biết. Tôi nói về những điều tôi không biết. Điều đó là đơn
giản. Sao tôi lại phải nói về Thượng đế? Tôi biết mà. Sao ông lại phải nói về
vương quốc? Ông là vua. Ông biết mà. " Lão Tử không
nói về Thượng đế, thậm chí không nhắc tới ngài, dù chỉ một lần. Ông ấy đã quên
mất Thượng đế rồi sao? Ông ấy chống lại Thượng đế sao? Không. Ông ấy sống
Thượng đế một cách toàn bộ đến mức ngay cả việc nhớ tới cũng sẽ là phạm thượng.
Việc nói về Thượng đế sẽ là nói về một hiện tượng sâu sắc thế, nó sẽ là phản
bội. Nói về Thượng
đế sẽ là phản bội, tôi nói với bạn vậy. Nó là một hiện tượng thân mật thế; nó
là giữa ngài và cái toàn thể. Cũng hệt như những người yêu không thích nói về
tình yêu của họ. Và những người nói về tình yêu của mình - bạn có thể chắc chắn
họ không có cuộc sống tình yêu. Tình yêu là hiện tượng thân mật tới mức không
ai muốn nói về nó cả. Các nhà thơ nói về nó bởi vì họ không biết. Họ viết ra
các bài thơ, đấy là tưởng tượng của họ - nhưng họ đã không biết. Những người
yêu giữ im lặng. Những người yêu không nói về tình yêu chút nào. Chẳng có gì để
nói về nó cả - họ biết nó. Và bởi việc biết nó mà họ cũng biết rằng
không thể nào nói về nó được; điều đó sẽ là phản bội. Lão Tử mang tính tôn giáo
theo cách hoàn toàn khác. Bây giờ các bạn
thử đi vào lời kinh này với tôi: Đạo là mạch hổng, mà dùng mãi không cạn, Không thể dò được. Cái
hổng là một trong những từ chủ chốt trong Lão Tử. Ông ấy nói đi nói lại về cái
hổng. Cái hổng có nghĩa là không gian; cái hổng có nghĩa là sự bao la; cái hổng
có nghĩa là không thể cạn kiệt được. Bạn sống trong
nhà, nhưng khái niệm về nhà của bạn là các bức tường. Khái niệm của Lão Tử về
nhà là không gian bên trong, không phải là các bức tường. Ông ấy nói: Tường
không phải là nhà. Làm sao bạn có thể sống trong tường được? Bạn sống trong cái
trống rỗng, không trong tường. Cái hổng - đó mới là ngôi nhà thực. Nhưng khi
bạn nghĩ về ngôi nhà thì bạn nghĩ về cấu trúc bao quanh cái hổng đó. Đó là lí
do tại sao lâu đài và lều trông khác nhau đối với bạn. Điều đó không đúng cho
Lão Tử - bởi vì cái hổng là như nhau. Nếu bạn nhìn vào tường thì tất nhiên lều
là lều và lâu đài là lâu đài. Nhưng nếu bạn nhìn vào cái hổng bên trong nhất,
là ngôi nhà thật - bởi vì chỉ cái hổng mới có thể làm nhà cho bạn, không phải
tường - thế thì không có khác biệt giữa lều và lâu đài. Không có cái hổng giầu
và không có cái hổng nghèo: tất cả mọi cái hổng đều như nhau, chúng là bình
đẳng. Nhưng có bức tường giầu và bức tường nghèo. Một khi bạn
hiểu điều này, thế thì nhiều điều sẽ trở thành có thể bởi vì đây là sự tương tự
với tiềm năng và ý nghĩa vô hạn. Khi bạn nhìn vào một người, bạn có nhìn vào
thân thể không? Thế thì bạn đang nhìn vào bức tường đấy. Đấy không phải là con
người thật - con người thật là cái hổng bên trong. Thân thể có thể đẹp, xấu,
ốm, khoẻ, trẻ, già, nhưng cái hổng bên trong bao giờ cũng là một. Thế thì bạn
không nhìn vào thân thể, thế thì bạn nhìn vào cái hổng bên trong. Tại mọi nơi Lão
Tử đều thấy sự tương tự. Bạn đi ra chợ để mua chiếc bình đất hay bình vàng.
Bình vàng khác với bình đất - chỉ bức tường là khác nhau - nhưng chỗ hổng bên
trong là như nhau. Và khi người nghèo đi ra giếng và người giầu đi ra giếng -
người giầu mang bình vàng còn người nghèo mang bình đất - họ đi với cùng chỗ
hổng đó. Họ mang cùng nước và khi họ trút đầy bình, không phải các bức vách
ngăn là được dùng mà là chỗ hổng bên trong, cái trống rỗng bên trong. Lão Tử nói: Nhìn
vào cái bên trong, đừng nhìn vào cái bên ngoài. Và cái hổng bên trong là bản
thể của bạn; cái hổng bên trong, cái trống rỗng bên trong là bản thể của bạn.
Điều đó nghĩa là bản thể của bạn là sự không hiện hữu, bởi vì từ "hiện
hữu" cho bạn cảm giác rằng cái gì đó có đó bên trong. Không, không có ai
bên trong cả - tất cả mọi cái ai đó đều là ở bên ngoài, bên trong là không ai
cả, cái hổng. Tất cả bản ngã đều chỉ trên bề mặt, bên trong là vô ngã. Ai có đó
bên trong? Một khi bạn biết, bạn sẽ cười, bạn sẽ nói rằng vấn đề là không liên
quan. Không có ai cả,
đích xác là cái không - đó là lí do tại sao bạn bao la, đó là lí do tại sao bạn
mang phẩm chất của Brahma. Đó là lí do tại sao bạn không thể tìm thấy Thượng đế
ở đâu cả - bởi vì ông ấy là cái hổng của cái toàn thể còn bạn cứ đi tìm thân
thể. Ai đó đang tìm Krishna, ai đó đang tìm Christ, ai đó đang tìm Mahavira -
tất cả đều đi tìm thân thể. Không ai đi tìm cái hổng; bằng không thì bạn cần
phải đi đâu? Không gian bao quanh bạn từ mọi nơi. Đây là Thượng đế - không gian
này: cái không gian mà trong đó bạn được sinh ra, cái không gian mà trong đó
bạn sống, cái không gian mà trong đó bạn sẽ tan biến. Cá được sinh ra
trong biển, cá sống trong biển, cá chết và tan biến trong biển. Cá không là gì
ngoài nước biển. Bạn đích xác hệt như vậy. Cái hổng bao quanh tất cả và cùng
cái hổng đó là ở bên trong. Làm sao có thể có hai kiểu cái hổng được? Không thể
được. Cái trống rỗng bao giờ cũng là một. Trong tội nhân tồn tại cùng cái hổng
như trong thánh nhân. Tội nhân có cái nhãn ở bên ngoài là tội nhân, thánh nhân
có cái nhãn bên ngoài là thánh nhân. Bạn cũng bị gắn với các bức tường; bạn
không thấy rằng tường là không có nghĩa. Tại sao bạn gọi
một người là thánh nhân? - bởi vì người đó làm điều gì đó mà bạn gọi là tốt.
Tại sao bạn gọi một người là tội nhân? - bởi vì người đó làm điều gì đó mà bạn
gọi là xấu. Nhưng tất cả mọi việc làm đều là ở bên ngoài, mọi hành động đều ở
bên ngoài, chúng chỉ là bức vẽ trên tường. Nhưng cái hổng bên trong - cái hổng
bên trong liệu có thể trở nên không thuần khiết bởi hành động của bạn được
không? Bạn có thể làm cho cái trống rỗng thành không thuần khiết được không?
Cái trống rỗng đơn giản là trống rỗng. Làm sao bạn có thể làm cho nó thành
thuần khiết hay không thuần khiết được? Cái trống rỗng vẫn còn không bị động
chạm tới. Nếu bạn chém tôi bằng chiếc kiếm, thì bạn chém thân thể tôi nhưng
không chém được tôi, bởi vì "tôi" nghĩa là cái trống rỗng bên trong.
Nếu tôi làm điều gì đó thì tôi làm với bức tường, nhưng cái trống rỗng bên
trong là người không làm. Nhớ lấy sự tương tự này. Nó là từ khoá trong Lão Tử. Đạo là mạch hổng, mà dùng mãi không cạn, Không thể dò được. Nếu
Đạo hay Thượng đế mà không trống rỗng thế thì cái dụng của chúng không thể nào
là không cạn được, thế thì một ngày nào đó chúng sẽ bị cạn kiệt. Và Thượng đế
có thể được gọi là Thượng đế không nếu có thể bị cạn kiệt? Một ngày nào đó Thượng
đế sẽ chết, nó sẽ bị cạn kiệt. Nhưng trong tâm trí bạn, khái niệm về Thượng đế
đã được tạo ra như một người ngồi đâu đó trên trời và kiểm soát. Ngài không
kiểm soát. Ngài không phải là người. Trong thực tế ngài không phải là ông nào
cả, và ngài cũng không phải là bà nào cả. Tất cả các từ
của chúng ta đều không liên quan bởi vì Đạo là cái hổng bao la, không gian bao
la, cái trống rỗng. Logic của bạn sẽ lập tức nảy sinh trong tâm trí: thế thì
làm sao mọi thứ có đó? Hỏi các nhà vật lí; bây giờ họ đã đi tới cùng hiểu biết
như Lão Tử. Bây giờ họ nói rằng chúng ta đi ngày một sâu vào trong vật chất,
vật chất biến mất. Cuối cùng nó biến mất hoàn toàn. Bây giờ chúng ta biết. Bên
trong, nó là cái hổng. Họ đã tìm về bản chất của vật chất; họ đã tìm vất vả
nhưng bây giờ nó đã tuột đi hoàn toàn, khỏi tầm nhìn của chúng ta - họ không
thể thấy chỗ nó đã biến mất. Họ đã tìm nó lần đầu tiên trong phân tử, thế rồi
họ đi sâu hơn vào nguyên tử, thế rồi họ chia nguyên tử ra và đi sâu hơn vào
điện tử. Bây giờ vật chất đã biến mất hoàn toàn - cái không. Vật chất là cái
hổng. Ngay cả những bức tường đá này cũng là cái hổng. Đó là lí do tại sao
người Hindus gọi thế giới vật chất là ảo tưởng: nó có vẻ rất vững chắc và bản
chất mà bên trong mọi thứ đều là hổng. Bất kì khi nào
bạn im lặng, ngồi với đôi mắt nhắm quan sát bên trong, bạn sẽ cảm thấy tính
hổng. Đừng hoảng hốt. Các nhà vật lí đã săn đuổi vật chất và họ đã đi tới cái
hổng, còn những người thực sự tìm kiếm chiều hướng tâm linh thì cũng đi tới cái
hổng. Thế thì bạn trở nên hoảng sợ. Nếu vật chất là hổng, chẳng thành vấn đề,
nhưng nếu bạn cũng là hổng, cây tre hổng, bên trong chẳng có gì ngoài cái trống
rỗng, bạn trở nên sợ hãi. Nếu bạn trở nên sợ hãi, bạn sẽ níu bám lấy bức tường,
và trong phân tích cuối cùng thì bức tường cũng là hổng. Sự tồn tại này là cái
trống rỗng bao la, và đó là cái đẹp của nó. Trong đêm bạn
đi ngủ - giấc mơ phát sinh từ cái không: giấc mơ đẹp, giấc mơ xấu, ác mộng làm
bạn sợ đến chết. Giấc mơ nảy sinh từ cái không và chúng có vẻ thật thế. Chúng
có vẻ như đích thực, nhưng khi mắt bạn mở ra vào buổi sáng, bạn không thể nào
thấy chúng ở đâu cả. Chúng tới từ đâu? Chúng đã nảy sinh từ đâu? Và bây giờ
chúng đã biến đi đâu? Bạn chưa bao giờ nghĩ về hiện tượng này của giấc mơ. Nếu
nó có thể xảy ra trong đêm, sao không xảy ra trong ngày? Một trong các
đệ tử của Lão Tử, Trang Tử, một đêm đã mơ rằng mình đã biến thành bướm, dập
dờn, bay giữa những đoá hoa. Và sáng hôm sau khi tỉnh dậy ông ấy đã rất buồn. Các đệ tử của
ông ấy hỏi, "Thưa thầy, có chuyện gì vậy? Chúng tôi chưa bao giờ thầy thầy
buồn thế. Chuyện gì đã xảy ra?" Ông ấy nói,
"Ta khó xử quá. Ta đang trong thế tiến thoái lưỡng nan mà dường như bây
giờ thì không thể nào giải được." Các đệ tử nói,
"Chúng tôi chưa bao giờ có bất kì vấn đề nào mà thầy không thể giải được.
Thầy nói xem, vấn đề gì vậy?" Trang Tử nói,
"Đêm qua ta mơ rằng ta đã biến thành bướm, bay trong vườn, từ hoa nọ sang
hoa kia. " Các đệ tử cười.
Họ nói, "Đây là giấc mơ, thưa Thầy! " Trang Tử nói,
"Hãy hượm, để ta kể cho các ông toàn bộ câu chuyện. Bây giờ ta đang thức
và ta bị phân vân. Hoài nghi đã nảy sinh. Nếu Trang Tử có thể mơ rằng ông ta có
thể biến thành bướm, thì sao không có điều ngược lại? Bướm có thể mơ rằng nó đã
biến thành trang Tử. Bây giờ ai là ai đây? Ta là bướm đang mơ rằng mình đã biến
thành Trang Tử sao?" Bởi vì nếu có
thể xảy ra là bạn có thể biến thành bướm trong giấc mơ, thế thì vấn đề là gì?
Bướm ngủ đó trong sáng nay, nghỉ ngơi, có thể mơ rằng nó là bạn. Và làm sao bạn
biết mình là ai? Nếu Trang Tử có thể biến thành bướm, thì sao bướm không thể
biến thành Trang Tử? Dường như không thể không có khả năng về điều đó. Giấc mơ đêm tới
từ cái không và chúng có vẻ thực; vào ban ngày, giấc mơ tới từ cái không và
chúng có vẻ thực. Sự khác biệt duy nhất giữa đêm và ngày là: mơ đêm là riêng tư
còn mơ ngày là công cộng. Đó là khác biệt duy nhất. Trong giấc mơ đêm bạn không
thể mời bạn bè mình tới đó - nó là riêng tư. Trong giấc mơ ngày bạn có thể mời
bạn bè mình - nó là công cộng. Nếu có khả năng về mơ riêng tư thì cũng có khả
năng về mơ công cộng. Chúng ta ở đây. Nếu tất cả chúng ta đều đi ngủ, sẽ có
nhiều giấc mơ như có nhiều người ở đây: riêng tư. Không giấc mơ của người nào
sẽ đi vào giấc mơ của người khác. Chúng sẽ không va chạm với bất kì ai, và mọi
người sẽ quên mọi người khác; người đó sẽ sống trong giấc mơ của mình và trong
thực tại mơ của riêng mình. Thế rồi bạn thức. Bạn nhìn vào tôi và tôi đang nói
với bạn. Đây là giấc mơ công cộng, tất cả các bạn đều mơ cùng nhau. Đó là khác
biệt duy nhất. Có khả năng cho
thức tỉnh lớn hơn - khi bạn thức tỉnh khỏi giấc mơ công cộng nữa. Đó là chứng
ngộ là gì. Thế thì bỗng nhiên toàn thể thế giới đều là maya. Đây là điều
Lão Tử đang nói. Đạo là mạch hổng, mà dùng mãi không cạn, Không thể dò được. Nó
là cái trống rỗng bao la và mọi thứ đều nảy sinh từ nó và quay trở nó, rơi
vào trong nó. Và nó là không cạn bởi vì nó không có giới hạn. Bạn có thể
không nhận biết rằng khái niệm về số không đã được phát minh, khám phá ra ở Ấn
Độ, bởi vì Ấn Độ đã trở nên nhận biết rằng mọi thứ bắt nguồn từ cái không, số
không, rồi mọi thứ rơi trở về trong cái không, số không. Toàn bộ cuộc hành
trình là từ số không tới số không. Cho nên Ấn Độ đã đặt ra khái niệm về số
không, cinema. Và đó là cơ sở cho mọi toán học - số không là cơ sở cho
mọi toán học. Nếu số không bị lấy đi thì toàn bộ cấu trúc của toán học sụp đổ.
Với số không toàn bộ trò chơi bắt đầu - bạn thêm một số không vào bên con số
một, thế thì giá trị của không là chín bởi vì ngay lập tức một trở thành mười.
Chín được sinh ra từ số không ngay lập tức. Bạn thêm hai số không vào một, giá
trị là chín mươi chín, lập tức một đã trở thành một trăm - từ số không toàn thể
cấu trúc được dựng lên. Không có số không, toán học biến mất, và không có toán
học thì toàn bộ khoa học biến mất. Cho nên nếu bạn
hỏi tôi, thì số không là gốc rễ của mọi toán học và của mọi khoa học; bạn không
thể nào quan niệm nổi về một Einstein mà không có khái niệm về số không. Không,
điều đó là không thể được. Mọi máy tính sẽ dừng ngay lập tức nếu bạn vứt bỏ
khái niệm về số không, bởi vì không có số không thì chúng không thể làm việc
được. Số không dường như là điều bản chất nhất trong thế giới này. Và số không
là gì? Số không đơn giản là số không, cái không - nó là không thể vét cạn được.
Bạn có thể lấy nhiều thứ ra khỏi nó tuỳ ý. Nó có thể trở thành chín, nó có thể
trở thành chín mươi chín, nó có thể trở thành chín trăm chín mươi chín. Bạn cứ
tiếp tục đi và nó có thể trở thành bất kì cái gì bạn thích; nó là không đáy, không
thể dò được. Bạn không thể dò được nó. Số một bị giới hạn. Nó có giới hạn,
nó có giá trị cố định cho nó. Số hai là bị giới hạn - tất cả chín con số đều bị
giới hạn, chỉ số không là hiện tượng vô hạn. Trong thực tế chín chữ số không
thể vận hành được nếu thiếu nó. Chúng đều bắt nguồn từ nó, chúng trưởng thành
từ nó. Toàn bộ sự tồn tại này bắt nguồn từ số không, cái hổng. Tại sao có nhấn
mạnh này vào tính hổng? Nó không phải là học thuyết triết học, nhớ lấy, nó đơn
giản là sự tương tự - Lão Tử đang cố gắng chỉ ra cho bạn điều gì đó. Ông ấy
đang cố gắng chỉ ra cho bạn rằng chừng nào bạn còn chưa trở thành cái hổng thì
bạn sẽ còn khổ, bởi vì tính hổng mới là thực tại của bạn. Với cái không thực,
bạn sẽ khổ. Và đó là ý
nghĩa của thiền: trở thành cái hổng, trống rỗng bên trong. Thậm chí không một ý
nghĩ trôi nổi - không nội dung, chỉ là không gian. Bỗng nhiên mọi khổ đã biến
mất, bởi vì khổ tồn tại trong các ý nghĩ; cái chết đã biến mất bởi vì cái chết
tồn tại trong các ý nghĩ; quá khứ đã biến mất bởi vì toàn bộ gánh nặng được
mang qua ý nghĩ; tham vọng biến mất bởi vì làm sao bạn có thể tham vọng được mà
không có ý nghĩ? Làm sao bạn có thể điên mà không có ý nghĩ nào? Bạn đã bao giờ
thấy người điên nào mà không có ý nghĩ nào không? Trong thực tế, người điên là
người điên bởi vì người đó có quá nhiều ý nghĩ và người đó không thể nào giữ
chúng với nhau: một đám đông toàn thể... quá nhiều không thể chịu nổi. Người
điên là người suy nghĩ lớn lao. Đó là rắc rối của người đó: người đó nghĩ quá
nhiều, và người đó nghĩ theo nhiều chiều cùng nhau. Trong chiếc xe của mình,
theo đủ mọi hướng, ngựa đều bị đóng cương và người đó đi theo đủ mọi hướng, và
người đó không thể nào dừng được bởi vì người đó không hiện hữu. Người đó bị
phân chia, phân mảnh tới mức người đó không có. Chỉ cái hổng
mới có thể không bị phân chia. Bạn có thể phân chia cái hổng được không? Mọi
thứ đều có thể bị phân chia - bất kì cái gì là chất liệu đều có thể bị phân
chia. Cái ngã có thể bị phân chia, chỉ vô ngã mới không thể bị phân chia. Đó là
lí do tại sao khi Phật đạt tới chứng ngộ tối thượng của mình thì ông ấy đã đặt
ra một từ là phát minh riêng của ông ấy: từ anatta. Nó chưa bao giờ tồn
tại trước ông ấy. Anatta nghĩa là vô ngã. Anatta nghĩa là anatma.
Anatta nghĩa là bạn không hiện hữu. Anatta nghĩa là không hiện
hữu, bạn không có. Anatta nghĩa là cái không, cái hổng. Sự tương tự là
để chỉ ra cái gì đó: trở thành cái hổng, là cái hổng. Nhưng toàn bộ giáo huấn, ước
định của xã hội chống lại nó. Tại phương Tây họ nói rằng nếu bạn trống rỗng,
bạn sẽ trở thành xưởng của quỉ. Tâm trí trống rỗng là xưởng của quỉ. Điều này
là ngu xuẩn, cực kì ngu xuẩn, bởi vì tâm trí trống rỗng không bao giờ có thể là
xưởng của quỉ được. Nếu nó thực sự trống rỗng, bỗng nhiên chỉ Thượng đế mới có
đó và không cái gì khác cả, bởi vì Thượng đế là cái hổng. Quỉ đầy những ý nghĩ,
nó chưa bao giờ trống rỗng cả. Quỉ có tâm trí; Thượng đế không có tâm trí. Bạn
có thể trở thành xưởng của quỉ - bạn càng nghĩ nhiều, bạn càng trở thành xưởng
đó nhiều hơn! Nếu bạn không nghĩ chút nào, làm sao bạn có thể trở thành xưởng
của quỉ được? Quỉ không thể nào đi vào trong cái hổng được, nó sẽ sợ chết - bởi
vì đi vào trong cái trống rỗng là chết. Nó có thể đi vào trong bạn chỉ nếu có
nhiều ý nghĩ - thế thì nó có thể ẩn trốn trong đám đông, thế thì nó cũng có thể
trở thành một ý nghĩ trong bạn. Tâm trí trống
rỗng là tâm trí của Thượng đế - nó là vô trí. trở thành cái hổng đi, ngồi như
cây tre hổng. Đi như cái hổng, sống như cái hổng, làm bất kì cái gì bạn phải
làm nhưng làm nó cứ dường như bạn là cái hổng bên trong. Thế thì nghiệp sẽ
không đụng tới bạn chút nào; thế thì hành động của bạn sẽ không trở thành gánh
nặng cho mình; thế thì bạn sẽ không bị dính líu bởi vì cái hổng không thể bị
dính líu được. Thần hang không chết. Thần
hang là thần của
cái hổng. Hang động thung lũng là gì? - nó là một thứ hổng. Đi lên đồi núi, bạn
sẽ thấy hai thứ: đỉnh núi - đầy những đá, chất đầy, và hang động - trống rỗng.
Thần của hang động là thần của cái trống rỗng. Đỉnh cao tới rồi đi, hang động
còn - bạn không thể phá huỷ cái không được. Cái gì đó bao giờ cũng có thể bị
phá huỷ. Nếu bạn là cái gì đó, bạn sẽ phải được sinh ra và chết đi, lặp lại.
Nếu bạn là cái không, thế thì làm sao bạn có thể bị phá huỷ được? Làm sao bạn
có thể được tạo ra? Bạn đơn giản biến mất khỏi thế giới của hình dạng vào thế
giới vô hình dạng; hang động có nghĩa là thế giới vô hình dạng. Thần hang không chết. Nên gọi mẹ nhiệm mầu. Đây
tất cả đều là sự tương tự. Đàn bà là hang động, đàn ông là đỉnh núi. Đàn ông đi
vào đàn bà, đàn bà đơn giản cho phép. Đàn ông là năng nổ, đàn bà là tiếp nhận.
Đàn ông cố gắng làm, đàn bà đơn giản chờ đợi mọi sự xảy ra. Nên gọi mẹ nhiệm mầu. Những
lời này phải được hiểu - mẹ nhiệm mầu - bởi vì với Lão Tử đó là điều tối
thượng. Lão Tử cảm thấy rằng bản chất của sự tồn tại giống đàn bà nhiều hơn là
đàn ông, bởi vì đàn ông ra đời từ đàn bà, đàn bà cũng ra đời từ đàn bà. Đàn ông
thậm chí có thể bị bỏ đi nhưng đàn bà thì không thể bị bỏ đi được. Đàn bà dường
như là một phần tử cơ sở. Đàn ông là sự phát triển ra từ đó. Đàn bà dường như
cơ sở hơn, tự nhiên hơn; đàn ông có cái gì đó phi tự nhiên về mình. Nếu bạn hỏi
các nhà sinh vật, họ nói rằng đàn ông có sự không quân bình sâu sắc trong sinh
học của mình; đàn bà là đối xứng, quân bình. Đó là lí do tại sao cô ấy trông
đẹp hơn và tròn trĩnh hơn. Đàn ông có góc cạnh, đàn bà không có góc cạnh. Đàn
bà là hiện tượng quân bình hơn, đó là lí do tại sao cô ấy chưa bao giờ cố gắng
phát minh ra cái gì đó, tạo ra cái gì đó, đi đâu đó - không, cô ấy chưa bao giờ
đi. Đàn ông bao giờ cũng đi. Anh ta phải là cái gì đó để chứng tỏ rằng mình
hiện hữu; anh ta không thể đơn giản chấp nhận bản thân mình. Anh ta không thể
đơn giản hiện hữu và vui sướng. Anh ta phải đi lên mặt trăng, và anh ta phải đi
lên đỉnh Everest, và anh ta phải làm cái gì đó. Một sự mất quân bình sâu
sắc có đó, anh ta không thể đơn giản ngồi và hiện hữu. Anh ta trở thành một
người thám hiểm, nhà khoa học. Đàn bà đơn giản tận hưởng việc hiện hữu, cô ấy
hạnh phúc với những việc nhỏ, cô ấy không khao khát mặt trăng. Và mọi đàn bà
đều nghĩ việc đó ngu xuẩn làm sao: Sao bạn đi lên mặt trăng? Bạn cứ hỏi vợ các
nhà du hành vũ trụ, họ đơn giản không thể nào tin vào điều đó được. Tại sao?
Tại sao đi vào nguy hiểm và cái chết một cách không cần thiết? Cái gì sai
trong hiện hữu ở đây? Đàn ông là kẻ
lang thang, du mục. Nếu thế giới bị bỏ cho đàn ông thì sẽ không có nhà cửa,
chỉ lều trại là nhiều nhất. Và anh ta sẽ cứ di chuyển hết chỗ nọ tới chỗ kia.
Anh ta không thể ở một chỗ được, một cái gì đó sâu bên trong anh ta cứ buộc anh
ta phải đi. Anh ta không quân bình; không quân bình này là điên khùng của anh
ta. Nhìn đàn bà mà xem. Cô ấy quân bình. Nhu cầu của cô ấy nhỏ bé thôi: ai đó
để yêu, ai đó để được yêu, thức ăn, chỗ ở, chút ít hơi ấm xung quanh, gia đình
- kết thúc. Thế thì cô ấy chẳng lo nghĩ về cái gì cả. Không phụ nữ nào tạo ra
khoa học, không phụ nữ nào sáng lập ra tôn giáo. Mọi người tới tôi và hỏi tại
sao mọi tôn giáo đều do đàn ông tạo ra. Bởi vì đàn ông căng thẳng, anh ta phải
làm điều gì đó này khác. Nếu anh ta trở nên thất vọng với thế giới này, anh ta
bắt đầu làm cái gì đó với thế giới khác, nhưng anh ta phải làm. Anh ta chưa bao
giờ ở đây và bây giờ, anh ta không thể nào ở đây và bây giờ được. Lão Tử thấy sự
tương tự này rằng bản chất của sự tồn tại mang nhiều nữ tính hơn, nó quân bình
hơn. Nhìn cây, nhìn chim đang hót, nhìn sông đang chảy, nhìn vào khắp xung
quanh và quan sát - bạn sẽ thấy nhiều phần nữ tính ở mọi nơi. Mọi thứ đều dường
như hoàn hảo vào khoảnh khắc này. Cây không lo nghĩ về tương lai, chim không lo
nghĩ về tương lai, sông đơn giản chảy một cách lười biếng thế, im lặng thế - cứ
dường như chúng không di chuyển chút nào. Chẳng cái gì dường như vội vã cả. Đó là lí do tại
sao điều đó xảy ra hàng ngày: đàn ông cứ bóp còi xe trên phố còn đàn bà cứ nói
từ trên cửa sổ, "Em xuống ngay đây. Một phút thôi." Đàn bà không bị
căng thẳng về thời gian. Họ có đồng hồ đeo tay, nhưng chúng là đồ trang sức -
chúng không thực là đồng hồ. Họ không có bất kì căng thẳng thời gian nào bởi vì
họ không vội vã. Căng thẳng thời gian nảy sinh từ vội vã và tất bật - mọi thứ
đều run rẩy và mọi thứ đều lâm nguy, cứ dường như một phút chậm trễ và mọi thứ
sẽ mất. Và nếu bạn hỏi người đàn ông, "Anh đi đâu đấy?" thì anh ta sẽ
nhún vai - giống như trong phim, nhưng cứ bóp còi dường như cái gì đó lớn lao. Lại
một kinh nghiệm sống đang sắp bị bỏ lỡ. Và đàn bà thì cứ nói... Có lần tôi thậm
chí đã nghe nói về một phụ nữ. Tôi đang ngồi với người chồng trong xe hơi, và
thực sự chúng tôi sắp bị muộn rồi còn anh chồng rất lo lắng. Trong thực tế anh
ta chẳng cần phải lo nghĩ, anh ta không nên lo nghĩ, bởi vì đấy là cuộc hẹn gặp
của tôi chứ không phải của anh ấy. Tôi sắp bị muộn. Nhưng anh ấy bấm còi, và
anh ấy rất lo nghĩ, vã mồ hôi và rủa vợ. Còn cô vợ - hai hay ba lần cô ta nói,
"Em tới ngay đây" - nhưng việc trang điểm của cô ấy vẫn chưa xong. Nó
chẳng bao giờ xong cả. Bằng cách nào đó bao giờ cô ấy cũng tới, nhưng việc
trang điểm chẳng bao giờ hoàn chỉnh, nhiều thứ có thể đã được làm. Cô ấy thấy
thoải mái với gương thế, với chính bản thân cô ấy - cô ấy thoải mái thế. Đó là
thế giới của cô ấy. Thế rồi người vợ phát bực mình, và cô ấy từ cửa sổ nhìn
xuống và nói, "Em đã bảo anh cả nghìn lần rằng một phút nữa em sẽ
xuống!" Một nghìn lần! Bạn thậm chí không thể nói được "Tôi đang
tới" một nghìn lần trong một phút. Không căng
thẳng thời gian... thế giới chuyển động không có căng thẳng thời gian nào. Đồng
hồ treo tường và đồng hồ để bàn không tồn tại cho cây cối và dòng sông và núi
non - đấy là thế giới vô thời gian. Con người tồn
tại với thời gian, với lo nghĩ. Sâu bên dưới lo nghĩ dường như là mang tính
dục: lo nghĩ về việc đạt tới cực thích trong dục. Bất kì khi nào đàn ông làm
tình với đàn bà, anh ta đều lo nghĩ liệu anh ta có khả năng làm điều đó hay
không, lo nghĩ liệu mình có khả năng thoả mãn cho người đàn bà hay không, lo
nghĩ liệu mình có khả năng chứng minh rằng mình là đàn ông hay không. Lo nghĩ:
run rẩy bên trong, trong vội vã để chứng tỏ bằng cách nào đó, và đó là lí do
tại sao anh ta bỏ lỡ. Xuất tinh có đó như cực thích - không. Cực thích là một
hiện tượng khác: nó xảy ra chỉ khi bạn không lo nghĩ, nó xảy ra chỉ khi bạn
không là người đạt tới, nó xảy ra chỉ khi bạn không đạt tới cái gì đó, nó xảy
ra trong thảnh thơi sâu sắc, nó xảy ra chỉ khi bạn không trong kiểm soát - mà
tự nhiên nắm quyền kiểm soát. Thế thì toàn bộ thân thể bạn rung động với phúc
lạc chưa biết. Thế thì mọi tế bào của thân thể bạn mở hội trong cực lạc toàn
bộ; thế thì nó là điều thiêng liêng. Nhưng con người
lo nghĩ, và lo nghĩ dục đó là nguyên nhân gốc rễ của mọi lo nghĩ. Thế thì ở mọi
nơi người đó cố gắng chứng tỏ bản thân mình. Không cần phải
chứng tỏ bản thân mình. Bạn hiệu hữu. Bạn hoàn hảo. Không đàn bà nào lo nghĩ về
việc chứng tỏ; cô ấy cứ coi như là mình hoàn hảo. Cô ấy sống theo cách rất
thảnh thơi. Nhiều người chồng tới tôi và bao giờ phàn nàn của họ cũng là ở chỗ
vợ họ lười nhác. Họ không lười; họ đang tận hưởng đấy! Dù bất kì trường hợp
nào, họ cũng không vội vã. Nhưng
theo cách so sánh thì họ có vẻ lười. Lão Tử nói
bản chất của sự tồn tại như giống cái, nhiều nữ tính hơn. Và sự tương tự này là
đẹp. Ông ấy không nói rằng sự tồn tại là giống cái - nhớ điều này. Đây không
phải là logic, ông ấy không ủng hộ phong trào giải phóng - không. Ông ấy đơn
giản nêu ra sự tương tự. Đàn ông có
thể cũng mang nữ tính. Vị phật mang nữ tính, một Lão Tử mang nữ tính, một Jesus
mang nữ tính. Thế thì ông ấy sống, ông ấy sống trong khoảnh khắc, không vội vã;
ông ấy tận hưởng sự không vội vã. Jesus nói
với đệ tử của ông ấy: Nhìn vào hoa loa kèn trên cánh đồng. Chúng đẹp làm sao!
Ngay cả Solomon trong niềm vinh quang của mình cũng không đẹp thế. Nhưng bí mật
của hoa loa kèn là gì? - chúng chỉ nở hoa đây đó. Điều gì sẽ xảy ra khoảnh khắc
tiếp không phải là mối lo; khoảnh khắc tiếp chưa đi vào ý thức của chúng. Con người có
thể sống trong sự tồn tại nữ tính - thế thì người đó trở thành nhà huyền môn.
Đó là cách duy nhất. Cho nên mọi nhà huyền môn đều trở nên nữ tính theo cách
nào đó. Và họ là những người tôn giáo thực sự, không phải là người sáng lập ra
tôn giáo. Nhớ lấy, đây
là khác biệt.... Phật không là người sáng lập ra Phật giáo - không. Đệ tử của
ông ấy là người sáng lập. Jesus không phải là người sáng lập ra Ki tô giáo -
không. Các đệ tử của ông ấy, họ là người sáng lập. Mahavira không phải là người
sáng lập ra Jaina giáo. Gautam, đệ tử của ông ấy, người là một học giả và bác
học vĩ đại, là người sáng lập. Đây mới là những người sáng lập. Bản thân
Jesus mang nữ tính. Để biểu lộ điều này, ở Ấn Độ chúng ta chưa bao giờ vẽ các avatars,
tirthankaras, chư phật có râu và ria - không - chỉ để chỉ ra điều này
rằng họ mang nữ tính. Bạn đã bao giờ thấy Ram có ria chưa? Krishna mang râu?
Không phải là họ bằng cách nào đó bị thiếu hoóc môn. Họ không phải là người
mang loại dục thứ ba. Họ là đàn ông; có râu. Nhưng đây chỉ là sự tương tự.
Chúng ta đã vứt bỏ râu để chỉ ra rằng họ đang trở thành nữ tính: nhà huyền môn
nữ tính đã đi vào trong sự hiện hữu. Họ tồn tại mà không vội vã gì, họ tồn tại
không như đàn ông căng thẳng mà như đàn bà không căng thẳng, và bạn có thể cảm
thấy xung quanh họ hơi ấm nữ tính, cái tròn trĩnh của vị phật. Thần hang không chết. Nên gọi mẹ nhiệm mầu. Cửa của mẹ nhiệm mầu Gốc rễ của đất trời.
Cửa của mẹ nhiệm mầu Gốc rễ của đất trời... Và
nếu bạn có thể tìm thấy chìa khoá để mở cánh cửa của mẹ nhiệm mầu thì bạn đã mở
được cánh cửa của sự tồn tại. Mọi người phải đi vào cánh cửa đó không căng
thẳng, quân bình, thoả mãn, hài lòng - đó là bí mật của việc hiện hữu nữ tính. Khi tôi nói
điều này, có hai khả năng hiểu lầm: đàn bà có thể hiểu lầm và nghĩ rằng họ
chẳng có gì phải làm cả; đàn ông có thể hiểu lầm và nghĩ rằng Lão Tử này không
nói cho họ. Không, đấy là cho các bạn, cả hai. Nhưng nhớ... đàn bà không phải
là thuần đàn bà, bản thân họ đã làm mất mẹ nhiệm mầu. Họ phải tìm lại nó lần
nữa. Tất nhiên là họ tìm nó lần nữa dễ dàng hơn là đàn ông, bởi vì đàn ông đã
đi xa xôi. Và đừng nghĩ rằng nếu bạn là đàn ông thì Lão Tử không nói cho bạn -
ông ấy đặc biệt nói cho bạn đấy, bằng không thì bạn sẽ đi ngày một xa hơn khỏi
sự tồn tại và cực lạc của cuộc sống. Mọi người đều phải quay trở về với mẹ; đó
là mẹ nhiệm mầu. Bạn được
sinh ra từ bụng mẹ, và bạn phải tìm ra bụng mẹ lần nữa trong sự tồn tại. Nếu
bạn có thể tìm thấy bụng mẹ lần nữa trong sự tồn tại, cùng hơi ấm đó, cùng cuộc
sống đó, cùng tình yêu đó trong sự tồn tại - thế thì sự tồn tại trở thành gia
đình bạn, mẹ bạn. Người Hindus
khá hơn khi họ gọi thượng đế của mình là "mẹ" - mẹ Kali - so với
người Ki tô giáo và người Mô ha mét giáo và người Do Thái giáo, người cứ gọi
thượng đế của mình là "cha." Cả ba tôn giáo này đều hướng đàn ông, đó
là lí do tại sao họ bạo hành thế. Người Mô ha mét giáo và người Ki tô giáo đã
giết chết nhiều người, họ đã từng là thảm hoạ trên trái đất. Họ đã từng giết
người. Nhân danh tôn giáo họ đã chỉ giết chóc mà không làm gì khác. Đây là tôn
giáo hướng đàn ông. Phật giáo đã
không giết người, Jaina giáo đã không giết người, bởi vì họ ngày càng nghiêng
về mẹ nhiệm mầu. Và bạn không thể nào phàn nàn chút gì về Lão Tử được, với ông
ấy không tồn tại tôn giáo có tổ chức. Một khi tôn giáo trở thành có tổ chức, bạo
hành đi vào trong nó. Tổ chức sẽ thành bạo lực, nó phải tranh đấu theo cách của
nó, nó nhất định trở thành nam tính. Tổ chức mang nam tính; tôn giáo mang nữ
tính. Tôi đã nghe
một giai thoại rằng vài đệ tử của quỉ rất lo nghĩ và nói với quỉ, "Sao
thầy cứ ngồi ở đây thế? Toàn bộ công việc của chúng ta đang lâm nguy. Một người
đã trở thành phật, chứng ngộ. Chúng ta phải làm điều gì đó, bằng không thì
người đó sẽ làm biến đổi mọi người - và thế giới của chúng ta sẽ thành sa mạc,
và ai sẽ xuống địa ngục? Làm ngay điều gì đó đi! Không được để mất thời gian.
Một người đã trở thành phật rồi!" Quỉ nói,
"Chớ có lo nghĩ. Ta
làm việc qua các đệ tử. Ta đã gửi vài tên đi rồi, các đệ tử đang trên đường.
Chúng sẽ bao quanh người kia. Chúng sẽ tạo ra tổ chức. Và không cần phải lo
nghĩ: tổ chức sẽ làm mọi điều mà chúng ta không thể làm được, và chúng bao giờ
cũng làm điều đó tốt hơn. Ta đã biết điều đó qua lịch sử. Ta sẽ tạo ra nhà
thờ... và ta sẽ không dính líu chút nào vào nó. Trong thực tế, chúng làm việc
đó theo cách của chúng. Ta chỉ đơn giản động viên và giúp đỡ." Một khi giáo
hoàng có đó, thì Christ bị lãng quên; một khi nhà thờ có đó, thì Phật bị giết
và sát hại. Bao giờ cũng vậy tôn giáo đứng trên xác của vị phật. Đây là những
điều tương tự. Đàn bà có thể đạt tới mẹ nhiệm mầu một cách dễ dàng; đó là lí do
nhiều đàn bà trở nên bị hấp dẫn tới tôn giáo. Họ không tạo ra tôn giáo - nhưng
nhiều đàn bà, gần gấp bốn lần đàn ông, trở nên quan tâm tới tôn giáo. Trong số
các đệ tử của Mahavira, bốn mươi nghìn người là đàn bà và mười nghìn người là
đàn ông; và tỉ lệ cũng là như vậy với các đệ tử của Phật. Bạn vào bất kì nhà
thờ nào và bất kì đền chùa nào và đếm mà xem - bạn bao giờ cũng thấy bốn đàn bà
so với một đàn ông, và một người đó có thể tới chỉ bởi vì người vợ đã tới; anh
ta có thể không thực ở đó. Đàn bà có thể
trở nên dễ hoà hợp hơn; họ là người mẹ, họ có bản tính gần hơn. Đàn ông sẽ thấy
có khó khăn chút ít để quay lại; anh ta có sự tham dự, cam kết, đầu tư vào
trong lo lắng và căng thẳng. Cho dù anh ta có tới, anh ta sẽ tạo ra lo lắng
quanh tôn giáo. Đây là quan sát
của tôi: phụ nữ tới tôi - nếu họ buông xuôi, họ buông xuôi toàn bộ. Thế thì họ
đơn giản bắt đầu trưởng thành. Đàn ông tới tôi
- nếu họ buông xuôi, họ không thể buông xuôi hoàn toàn được - một phần họ bao
giờ cũng giữ lại. Và khi bạn buông xuôi nửa vời, đấy không phải là buông xuôi
chút nào. Thế rồi họ thiền, nhưng thế thì việc thiền trở thành sự lo lắng. Và
họ tới và họ nói, "Bây giờ thiền này đang tạo ra lo lắng. Tôi không thể
ngủ được. Tôi thường xuyên nghĩ về nó - làm sao cho nó xảy ra, làm sao tôi quản
lí được nó." Điều đó không
phải là việc quản lí. Bạn không thể quản lí nó được. Bạn phải trong buông bỏ,
buông bỏ lớn lao. Điều đó là khó đối với đàn ông; anh ta bị khép vào kỉ luật
cho sự lo lắng, bị huấn luyện để căng thẳng. Từ chính thời thơ ấu, xã hội đã
buộc đàn ông trở thành đàn ông - hung hăng, bạo hành, bao giờ cũng đạt
tới cái gì đó, tham vọng. Nếu chúng bắt đầu chơi búp bê thì bố mẹ nói,
"Sao vậy? Con làm gì vậy? Con có ẻo lả không đấy? Cái này là dành cho con gái, không cho
con trai. Chuyện gia đình là cho con gái; chơi búp bê là dành cho con gái,
không cho con trai." Chúng phải bước ra, và tranh đấu theo cách của mình
để vào cuộc sống. Chúng phải vật lộn - điều đó dành cho chúng. Nếu gia đình là
dành cho con gái thế thì việc ở nhà cũng sẽ dành cho con gái. Thế thì bạn không
bao giờ ở nhà cả; và ở nhà là thiền. Dằng dặc, dằng dặc, Dường như còn hoài. Kéo ra từ nó Dùng hoài không hết. Mẹ nhiệm mầu,
thần hang, cái hổng - Dằng dặc, dằng dặc, Dường như còn hoài. - nó bao giờ
cũng có đó - Kéo ra từ nó Dùng hoài không hết. Và
nó làm bạn thành toàn bộ, nó rót đầy bạn với sự thoải mái, như ở nhà. Thảnh
thơi tới với bạn. Nhìn vào sự tồn
tại không phải như cuộc vật lộn; mà như sự tận hưởng; nhìn vào sự tồn tại không
như cuộc chiến, xung đột, mà như lễ hội - và cái vô hạn là lễ hội, cái vô hạn
là khả năng của phúc lạc - phúc lạc theo phúc lạc. Dằng dặc, dằng dặc, Dường như còn hoài. Kéo ra từ nó Dùng hoài không hết. Câu hỏi thứ
nhất: Thầy có biết
tôi là ai không?
Không thưa
ngài, chẳng biết chút nào. Bởi vì bạn không hiện hữu. Bạn là cái trống rỗng - anatta.
Không thưa ngài. Trên bề mặt bạn có thể là ai đó, nhưng tôi không quan tâm tới
bề mặt của bạn. Trong cốt lõi sâu nhất, bạn đơn giản là không ai cả, thậm chí
không là không ai cả - mà là sự không ai cả. Làm sao tôi có thể biết bạn được? Và đó là cái
đẹp, bởi vì nếu tôi có thể biết được bạn thì tôi đã xác định ra bạn, tôi đã làm
cho bạn bị giới hạn bởi tri thức của tôi. Nếu bạn có thể được biết, thì ngay
lập tức bạn trở thành một vật, bạn không còn là tâm thức nữa. Nếu bạn có thể
được biết thì bạn không thể là vô hạn được, mà như bạn hiện hữu - là vô hạn
trong sự trống rỗng của bạn. Làm sao tôi có thể biết được bạn? Ngay cả bản thân
bạn cũng không thể biết được. Không tồn tại cái gì giống như việc biết về cái
ngã. Khi bạn đi tới nhận ra nó, nó là việc biết về vô ngã. Khi bạn đi
tới lắng đọng với nó, bỗng nhiên bạn trở nên nhận biết rằng người biết và cái
được biết đã biến mất - chỉ có cái trống rỗng, không gian bao la, vô thuỷ, vô
chung - cái vô hạn. Đó là điều bạn là gì - làm sao điều đó có thể được biết? Không có khả
năng nào cho tri thức. Và cũng tốt là bạn không thể được biết, bằng không thì
khoa học sẽ biết bạn, và một khi bị biết tới thì bạn là một vật, một thứ đồ.
Thế thì bí ẩn bị mất. Đó là lí do tại sao tôi cứ nói đi nói lại rằng khoa học
sẽ không bao giờ có khả năng biết được cốt lõi bên trong nhất của hiện hữu, bởi
vì cốt lõi bên trong nhất là không hiện hữu. Bạn chỉ giống như củ hành - cứ bóc
mãi các tầng ra. Cứ bóc mãi các lớp vỏ ra, lớp vỏ mới tới, lớp nọ tiếp lớp
kia, lớp nọ tiếp lớp kia, và thế rồi bỗng nhiên toàn bộ củ hành đi tiêu: cái
trống rỗng trong tay. Đó là bạn. Nhưng cái trống
rỗng này là không tiêu cực, cho nên đừng hiểu lầm tôi. Chính từ "cái trống
rỗng" có vẻ như vắng cái gì đó. Không, nó không phải vậy. Nó là sự hiện
diện của cái gì đó vô hạn. Nó không phải là thiếu vắng, nó không phải là tiêu
cực, nó không giống như bóng tối; nó là hiện tượng tích cực. Bạn là cái
vô ngã. Cái tích cực này phải được ghi nhớ bởi vì từ "trống rỗng" có
thể cho bạn khái niệm sai về nó, bạn có thể nghĩ nó là sự trống rỗng đơn giản.
Tôi không nói có sự thiếu vắng cái gì đó - không. Nó là tính trống rỗng, nó là
chính cái trống rỗng, nó là bản thân cái trống rỗng. Cái trống rỗng được dùng
như một từ tích cực; khi nó là tích cực thì nó hoàn toàn khác. Bạn đã biết cái
trống rỗng chỉ theo cách tiêu cực. Bạn đi vào trong phòng, không có đồ đạc và
bạn nói căn phòng trống rỗng, không có gì. Bạn đi ra và nếu tôi hỏi bạn, bạn
thấy gì trong phòng, thì bạn sẽ nói nó là trống rỗng - không đồ đạc, không
tranh ảnh trên tường, chẳng có gì - rỗng tuếch. Bạn đã đi vào trong phòng nhưng
bạn đã chỉ thấy phần tiêu cực. Căn phòng đầy sự rộng rãi, căn phòng có nghĩa là
không gian. Cái gì đó có thể được đem vào bởi vì có chỗ, có sự trống rỗng. Đồ
đạc có thể được đem vào - có không gian. Bạn đã không thấy nó theo cách đó.
Bằng không thì bạn sẽ tới và bảo tôi rằng căn phòng là đầy; không có cái gì,
chỉ cái trống rỗng là tồn tại, căn phòng sẵn sàng đón nhận bất kì cái gì - nó
có không gian. Thế thì bạn đã nhìn vào cái trống rỗng tích cực. Nhìn lên bầu
trời. Bầu trời là cái trống rỗng tích cực khi không có mây. Nếu bạn nhìn lên
trời như việc thiếu vắng mây thế thì bạn đang nhìn vào nó từ quan điểm tiêu
cực. Nếu bạn nhìn nó như sự hiện diện của không gian, của cái trống rỗng mầu
xanh, và từ cái trống rỗng mầu xanh đó mọi thứ đã nảy sinh, thế thì nó không
thể nào tiêu cực được. Nó là cái tích cực nhất trên thế giới này, chính nền
tảng của sự hiện hữu. Mọi thứ đều tới từ nó và mọi thứ dần dần đi lại vào trong
nó. Bạn được sinh ra từ nó và bạn sẽ chết đi trong nó. Làm sao tôi có
thể biết bạn được? Tri thức sẽ trở thành định nghĩa còn bạn là không thể định
nghĩa được. Không tôi không biết bạn. Tôi không biết bản thân mình. Tôi muốn kể cho
bạn một giai thoại. Chuyện xảy ra, và tôi thích nó, và tôi đã kể nó biết bao
nhiêu lần, hàng triệu lần, nhưng bất kì khi nào tôi nhớ tới nó thì nó mới mẻ
thế và tươi tắn thế. Bồ đề đạt ma
tới Trung quốc - con người đem sự trống rỗng của Phật trong tay mình. Bồ đề đạt
ma mang tinh hoa Phật giáo sang Trung quốc, để cho hiện tượng vĩ đại nhất xảy
ra tại đó. Bởi qua Bồ đề đạt ma, toàn bộ quan điểm của Lão Tử - cách sống của
Lão Tử - và chứng ngộ của Phật đã gặp gỡ, và một trong những điều đẹp đẽ nhất
đã được sinh ra. Không có gì giống điều đó tồn tại ở bất kì đâu trên thế giới -
đó là Thiền. Thiền là sự gặp gỡ, sự đan chéo giữa Phật và Lão Tử. Bồ đề đạt ma
là bà đỡ, người mang hạt mầm tới bụng mẹ của Lão Tử. Khi ông ấy tới
Trung Quốc, ông ấy đã là một nhà huyền môn rất nổi tiếng, tên tuổi ông ấy đã
vang lừng khắp phương Đông. Khi ông ấy tới Trung Quốc, đích thân hoàng đế ra
đón ông ấy tại biên giới. Hoàng đế hỏi vài câu hỏi. Hoàng đế hỏi, "Ta đã
làm nhiều chùa chiền Phật giáo - cả nghìn chiếc. Ta có được punya nào
không, công đức nào không? " Nếu như hoàng
đế nói cũng điều đó cho bất kì sư Phật giáo bình thường nào khác, người đó sẽ
đáp lại, "Tâu hoàng thượng, bệ hạ đã được công đức vô lượng - cõi trời của
bệ hạ là tuyệt đối chắc chắn, đảm bảo." Nhưng hoàng đế đã hỏi sai người. Bồ
đề đạt ma nói, "Công đức sao? Chẳng có gì cả! Ngược lại, ông tích luỹ
nhiều tội đấy." Hoàng đế sửng
sốt, ông ta không thể nào tin nổi vào điều đó. Ông ta nói, "Sao vậy? Ông
nói cái gì vậy? Ta đã làm nhiều chùa chiền Phật. Ta đã cho ấn tống và phân phát
lời của Phật cho hàng triệu người. Mọi ngày ta đều nuôi hàng nghìn sư Phật giáo
và ông nói ta tích luỹ tội sao? Ông muốn nói gì?" Bồ đề đạt ma
nói, "Chính ý tưởng là ông đã tích luỹ công đức là tội lỗi, nó chính là
bản ngã. Địa ngục của ông là chắc chắn, thưa hoàng thượng. Ông sẽ sa xuống tầng
thứ bẩy địa ngục - tầng thứ nhất thì chưa thấu." Hoàng đế không
thể nào tin được vào điều đó. Ông ta cảm thấy chút ít giận dữ nữa. Và ông ta
nói, "Ta có một câu hỏi để hỏi đây. Bên trong ta là cái gì? Ta là cái
gì?" - cùng câu hỏi mà bạn đã hỏi: "Thầy có biết tôi là ai
không?" Bồ đề đạt ma
nói, "Sự trống rỗng bao la, cái không." Bây giờ hoàng
đế mới thực sự giận dữ. Trong cơn giận ông ta hỏi Bồ đề đạt ma, "Thế thì
ông là ai? Ai đang đứng trước ta đây?" Bồ đề đạt ma nói,
"Ta không biết thưa bệ hạ." Tôi không biết.
Làm sao bạn có thể biết được cái trống rỗng? Bạn có thể là nó, nhưng bạn không
thể biết nó. Việc biết nghĩa là bạn tách biệt khỏi nó, việc biết cần khoảng
cách. Làm sao bạn có thể biết tới bản thân mình? Nếu bạn biết thế thì bạn bị
phân chia thành hai, người biết và cái được biết. Và tất nhiên cái được biết
không bao giờ có thể là bạn được, chỉ người biết, cho nên bất kì cái gì bạn
biết cũng không bao giờ là bản thân bạn, người biết. Và người biết là không thể
rút gọn được, nó không thể được làm thành cái được biết. Làm sao bạn có thể đặt
bản thân mình ra trước bản thân mình được? Bạn không thể làm được, điều đó là
không thể được. Và nếu bạn có thể làm được thế thì nó là cái gì đó khác ở trước
bạn, không phải là bạn. Bạn bao giờ cũng ở sau - người biết. Bao giờ cũng là
người biết, chưa bao giờ là cái được biết. Tôi không biết
bản thân mình... và đây là việc biết về cái ta. Nó có vẻ mâu thuẫn, nghịch lí,
nhưng đây là cách nó hiện hữu. Chẳng điều gì có thể được làm về nó cả, đây là
bản chất của mọi vật. Đó là lí do tại sao người biết về cái ta sẽ không bao giờ
công bố rằng mình biết. Bởi vì ai sẽ công bố? Người đó trở nên giống như người
dốt nát. Người đó nói, "Tôi chỉ biết rằng tôi không biết." Đi vào nội tâm
đi. Một ngày nào đó bạn sẽ đi tới cái trống rỗng này, cái trục của bánh xe. Cái
trục là trống rỗng nhưng nó giữ cho cả bánh xe trong nó; cái trục là trống rỗng
nhưng không có trục thì bánh xe sẽ biến mất, nó sẽ tan thành từng mảnh. Bạn chỉ
biết mỗi bánh xe - đó là cá tính của bạn cho tới nay, nama-rupa của bạn,
tên và hình của bạn; cái bánh xe của bạn mà bạn đã biết. Bạn càng đi vào sâu
bên trong thì một ngày nào đó bạn sẽ đi tới cái trục: đó là anatta, vô
ngã, cái trống rỗng. Nhưng nhớ: nó không là tiêu cực theo nghĩa trống rỗng cái
gì đó. Nó là bản thân cái trống rỗng. Nó là cái tích cực nhất trong sự tồn tại.
Nó là bản thân sự tồn tại. Người Hindus đã gọi nó là sat-chit-anand: sat
- đó là sự hiện hữu; chit - đó là nhận biết; anand - đó là phúc
lạc. Nhớ lấy, nó không là hạnh phúc; bằng không thì nó sẽ không trống rỗng. Nó
là phúc lạc, không hạnh phúc. Bạn sẽ không được tràn đầy với phúc lạc, bạn sẽ
bất ngờ thấy mình là phúc lạc. Trống rỗng có
bản chất của phúc lạc, có bản chất của sự tồn tại, có bản chất của tâm thức.
Không phải là tâm thức rót đầy nó: nó không giống như ngọn đèn cháy sáng trong
phòng cho nên ánh sáng rót đầy căn phòng. Bạn có thể tắt đèn đi và ánh sáng ra
đi; bạn không thể tắt tâm thức đi được. Nó là chính bản chất của cái trống rỗng
bên trong đó - không phải là nó rót đầy cái trống rỗng. Bạn không thể phá huỷ
được nó. Làm sao bạn có thể phá huỷ được cái trống rỗng? Bạn có thể phá huỷ mọi
thứ trên thế giới; bạn không thể phá huỷ được cái trống rỗng. Đó là lí do tại
sao bạn không thể bị sát hại, bạn không thể bị giết. Không có khả năng nào, bởi
vì bạn không hiện hữu. Lưỡi kiếm có thể giết chết bánh xe, nhưng cái trục thì
sao? - cái trục sẽ vẫn còn không bị động tới. Nó không thể bị phá huỷ; nó không
có đó ngay chỗ đầu tiên. Sự hiện hữu là
bản chất của cái trống rỗng bên trong; tâm thức là bản chất của cái trống rỗng
bên trong; phúc lạc là bản chất của cái trống rỗng bên trong. Đó là nỗi sợ mà
mọi người cảm thấy khi họ đi vào trong thiền. Khi họ đi vào trong thiền họ trở
nên sợ hãi, họ bắt đầu run rẩy. Run rẩy bên trong sâu sắc nảy sinh. Lo lắng và
phiền não sâu sắc nảy sinh. Tại sao nó phải như thế? Bạn đang đi tới gần trạng
thái sung sướng hơn, gần tới tâm thức tỉnh táo, nhận biết hơn, gần với sự tồn
tại hơn. Tại sao bạn kinh hoàng đến chết? Bạn kinh hoàng bởi vì bạn không biết
cách để là trống rỗng. Bạn chỉ biết cách được rót đầy, bạn không biết cách để
là trống rỗng. Bạn không biết cách chết, cách làm chết đi cá tính, cách để vẫn
còn trong sự trống rỗng bên trong. Bạn không biết. Khi bạn đi vào nội tâm và ý
nghĩ bắt đầu rơi rụng khỏi bạn, bỗng nhiên nỗi sợ nắm quyền sở hữu. Bạn đang đi
đâu? Bạn cảm thấy mình đang biến mất, bạn cảm thấy giống như mình đang chết.
Một loại không tồn tại nắm lấy bạn - cứ dường như bạn đang đứng cạnh vực thẳm
và bạn nhìn xuống và nó không đáy. Và bạn bắt đầu run rẩy, mồ hôi túa ra từ
mọi lỗ chân lông trên thân thể. Bạn đang đương đầu với cái chết. Nếu bạn chạy
trốn từ điểm này, bạn sẽ không bao giờ có khả năng thiền nữa. Do đó thầy là cần
tới. Khi bạn bắt đầu thấy sợ, thầy có thể khuyên nhủ bạn đừng sợ, thầy có thể
giúp bạn: "Nhìn vào ta đây. Ta đã trải qua điều này vậy mà ta vẫn đây. Ta
đã trở thành cái trống rỗng vậy mà ta vẫn đây. Và ta còn nhiều hơn ông, nhiều
hơn toàn thể sự tồn tại dồn ." Ai đó được cần tới để bạn có thể nhìn vào
người đó, nhìn vào mắt người đó bạn có thể có thoáng nhìn về cùng cái trống
rỗng mà bạn đang tới bên trong chính mình. Và vậy mà bạn có thể thấy rằng người
đó vẫn hiện hữu, và người đó là toàn bộ và tuyệt đối. Cho nên đừng sợ. Sự hiện
hữu của người đó cho bạn dũng cảm, sự hiện diện của người đó cho bạn dũng cảm.
Trong thực tế thầy không làm gì cả. Thầy là tác nhân xúc tác, chỉ sự hiện diện
của thầy là đủ. Một khi bạn rơi vào trong cái trống rỗng đó thì bạn sẽ bắt đầu
cười và bạn sẽ nói, "Không có cái chết. Mình đã sợ hãi không cần thiết,
cái sợ vô căn cứ." Trải qua cái chết bạn trở thành bất tử. Nhiều nhất điều
này tôi có thể nói với bạn: bạn là vô ngã. Trở thành vô ngã đi. Và vô ngã không
là trống rỗng theo bất kì nghĩa tiêu cực nào, nó là cái tích cực lớn lao nhất. Câu hỏi thứ
hai: Thầy nói
rằng thầy bao quát mọi cái đối lập trong thầy, rằng thầy không chối bỏ tội nhân
hay cái ghét trong thầy. Trong một bài nói khác có lần thầy nói thầy không chối
bỏ quỉ trong thầy, thầy là toàn bộ, điều này làm tôi phân vân. Tất cả mọi điều tôi
cảm nhận từ thầy là một tầm yêu thương và từ bi cực kì bao la và cảm giác về
lòng tốt tuyệt đối. Quỉ của thầy và cái ghét của thầy là ở đâu và khi nào? Khi bạn là cả
hai, thì quỉ được điều thiêng liêng hấp thu - bởi vì quỉ là một phần của nó.
Trong thực tế đây là số học bên trong. Nếu bạn sống cuộc sống bộ phận thì bạn
sẽ là quỉ, bởi vì quỉ không là gì ngoài một phần cứ công bố là cái toàn thể.
Một phần công bố rằng nó là cái toàn thể - đây chính là tính quỉ là gì. Khi bạn
chấp nhận nó, nó bị cái toàn thể hấp thu. Nếu bạn đánh nhau với nó, thế thì bạn
sẽ đánh nhau với chính mình và bạn bao giờ cũng sẽ còn bị chia rẽ. Trong chia
rẽ quỉ có thể tồn tại - nó tồn tại trong chia rẽ. Nó không thể tồn tại khi bạn
là toàn thể và toàn bộ. Khi bạn bị chia rẽ thế thì trong chỗ rạn vỡ nó tồn tại;
nó bắt rễ vào những chỗ rạn vỡ, vào giữa hai phần. Khi bạn chấp nhận mọi thứ,
cái toàn bộ của cuộc sống như nó thế, không chối bỏ, không từ bỏ, không gọi nó
bằng tên - cái này xấu và cái kia tốt - khi bạn chấp nhận cuộc sống như nó vẫn
thế, dù nó là bất kì cái gì, bất kì trường hợp nào, khi bạn chấp nhận nó trong
tính toàn bộ của nó, quỉ biến mất. Nó bị Thượng đế hấp thu, nó bị điều thiêng
liêng hấp thu. Quỉ là điều
thiêng liêng - theo chính từ này nữa. Quỉ (devil) bắt nguồn từ cùng gốc như
điều thiêng liêng (divine) - cả hai chúng đều bắt nguồn từ gốc tiếng Phạn dev.
Quỉ là điều thiêng liêng - đó là nghĩa gốc của thuật ngữ này. Mọi thứ đã
đi chút ít lạc lối, nhưng quỉ là điều thiêng liêng. Nó phải được gọi lại, và
bằng đánh nhau bạn không thể nào gọi nó quay được. Bằng việc đánh nhau nó nó
cứ đi xa mãi, và bạn bao giờ cũng sẽ bỏ lỡ một phần. Việc bỏ lỡ đó sẽ không cho
phép bạn an bình. Nó phải được gọi về nhà, nó phải được hấp thu vào cái toàn
thể. Nếu bạn chấp
nhận mọi thứ, bỗng nhiên yêu nở hoa, ghét biến mất. Cho nên khi tôi nói chấp
nhận ghét, tôi không nói mang tính ghét; trong thực tế, tôi đang cắt bỏ đi
chính gốc rễ của việc mang tính ghét. Khi tôi nói chấp nhận, trong sự chấp nhận
đó tôi đang cắt bỏ đi chính gốc rễ. Bạn sẽ không bao giờ mang tính ghét nữa nếu
bạn chấp nhận; nếu bạn không chấp nhận, bạn sẽ vẫn còn mang tính ghét, và yêu
của bạn sẽ thiếu đi cái gì đó. Điều này cần phải được hiểu sâu sắc bởi vì nó
không phải là vấn đề siêu hình, nó là sự tồn tại. Nó là vấn đề mà mọi người đều
có trong mình. Bạn ghét ai đó.
Khi bạn ghét, điều gì xảy ra bên trong? Ghét là gì? Bạn muốn làm gì với người
kia? Bạn muốn giết người đó, bạn muốn phá huỷ người đó. Bạn muốn tống người đó
ra xa, xa nhất có thể được. Bạn không muốn thấy người đó, bạn không muốn người
đó ở gần bạn. Bạn muốn người đó biến mất, không tồn tại nữa - đó là lí do tại
sao bạn muốn giết và phá huỷ. Khi bạn yêu một người, bạn muốn làm gì người đó?
Bạn muốn người đó bao giờ và bao giờ cũng sống, không bao giờ chết, ở gần và
cận kề, luôn có sẵn. Bạn muốn bảo vệ người đó, chăm sóc người đó, và bạn không
thể nào tin được rằng tình yêu của mình bị phá huỷ bởi bất kì cái gì. Bạn sẽ
muốn người yêu của mình là bất tử. Nhìn vào cả hai
hiện tượng này. Chúng là đối lập. Nhưng bạn không cảm thấy sao? - chúng là hai
mặt của cùng một đồng tiền. Yêu là sáng tạo, ghét là phá huỷ. Nhưng bạn có quan
sát không? - không sáng tạo nào là có thể mà không có phá huỷ; không phá huỷ
nào là có nghĩa chừng nào nó không phục vụ cho sáng tạo. Cho nên bây giờ: bạn
có thể phá huỷ nếu bạn định sáng tạo, thế thì không có vấn đề gì. Bạn có thể
phá sập một ngôi nhà nếu bạn định tạo ra ngôi nhà tốt hơn - không ai sẽ nói
rằng bạn mang tính phá huỷ cả. Bạn có thể phá huỷ một xã hội nếu một xã hội tốt
hơn là có thể, bạn có thể phá huỷ đạo đức để có một nền đạo đức tốt hơn - không
ai sẽ nói rằng bạn là phá huỷ cả bởi vì bạn đang phá huỷ để sáng tạo, và không sáng
tạo nào là có thể mà không có phá huỷ. Phá huỷ bị hấp thu bởi sáng tạo; thế thì
nó là đẹp, thế thì nó là một phần của quá trình sáng tạo. Nhưng bạn phá huỷ.
Bạn phá huỷ một xã hội mà chẳng có ý tưởng mình sẽ làm cái gì tiếp đó, không có
ý tưởng sáng tạo nào trong đầu cả. Bạn đơn giản hưởng thú việc phá huỷ. Bạn phá sập
ngôi nhà, bạn phá huỷ đồ vật, và nếu ai đó hỏi, "Sao anh làm điều
đó?" thế rồi bạn đơn giản nói, "Tôi thích phá đi" - thế thì bạn
điên, cái gì đó đã đi sai trong bạn. Phá huỷ đã trở thành toàn thể trong bản
thân nó, nó đang cố gắng công bố rằng nó là cái toàn thể. Khi phá huỷ công bố
rằng nó là cái toàn thể thế thì nó là quỉ; khi phá huỷ là một phần của cái toàn
thể lớn hơn, sự sáng tạo, thế thì nó là điều thiêng liêng. Khi bạn yêu một
người, nhiều nhiều lần bạn sẽ phải ghét người đó nữa, nhưng thế thì nó là một
phần của tình yêu. Bố yêu con mình. Nhiều lần người đó sẽ giận nữa và người đó
sẽ đánh đứa trẻ. Và đứa trẻ chẳng bao giờ bị xúc phạm bởi giận dữ đó cả, không
bao giờ. Đứa trẻ bị xúc phạm khi bạn đơn giản giận dữ mà chẳng nguyên nhân gì,
khi bạn mang tính phá huỷ mà chẳng nguyên nhân gì. Khi đứa trẻ không thể hiểu
được tại sao, thế thì nó không thể tha thứ được cho bạn. Nếu nó có thể hiểu
được tại sao - nó đã làm hỏng đồng hồ, bây giờ nó hiểu rằng bố nó sẽ đánh nó,
và nó chấp nhận điều đó. Trong thực tế, nếu người bố không đánh nó thì nó sẽ
mang mặc cảm và điều đó mang tính rất phá huỷ. Nó sẽ liên tục sợ rằng một ngày
này hay ngày khác mọi người sẽ biết rằng nó đã làm hỏng chiếc đồng hồ đeo tay
hay đồng hồ để bàn quí giá hay cái gì đó và vết thương sẽ còn đó. Nó muốn điều
đó được xoá bỏ đi, nó muốn điều đó được chấm dứt, và cách duy nhất để điều đó
có thể được chấm dứt là ở chỗ người bố trở nên giận dữ - bây giờ mọi thứ được
quân bình. Nó đã phạm phải điều gì đó sai, bố nó trở nên giận dữ, nó bị phạt:
mọi sự chấm dứt. Nó trong sạch. Bây giờ nó có thể đi mà không bị nặng gánh. Tại phương Tây,
bởi các nhà tâm lí trong thế kỉ này, nhiều điều ngớ ngẩn đã xảy ra trong mối
quan hệ giữa bố mẹ và con cái. Và một trong những điều ngớ ngẩn mà họ đã dạy
là: đừng bao giờ giận dữ với con bạn, đừng bao giờ đánh nó, đừng bao giờ ghét
nó. Bởi việc dạy dỗ này mà bố mẹ đã trở nên sợ hãi. Đây là điều gì đó mới. Trẻ
con bao giờ cũng sợ bố mẹ, nhưng bây giờ ở Mĩ bố mẹ sợ con cái. Cái gì đó có
thể đi sai về mặt tâm lí và thế rồi con cái họ có thể điên khùng hay phát điên
hay trở nên phân liệt hay chia chẻ - loạn thần kinh, bệnh tâm thần, cái gì đó
có thể xảy ra trong tương lai và họ sẽ chịu trách nhiệm. Cho nên điều gì xảy
ra? Người bố, nếu người đó yêu con, cảm thấy giận - vậy người đó sẽ làm gì?
Người đó sẽ kìm nén cơn giận. Và điều đó đứa trẻ không bao giờ có thể tha thứ
được, bởi vì khi người bố kìm nén cơn giận thì giận dữ trở thành lạnh. Cố hiểu điều
này. Bất kì khi nào giận dữ trở thành lạnh thì nó là của quỉ; bất kì khi nào
giận dữ là nóng thì nó là của Thượng đế. Giận dữ nóng là đẹp, sống động; giận
dữ lạnh là chết, mang chất độc. Khi người bố
thực sự nóng, vã mồ hôi, đỏ mặt, và đánh đứa con, đứa con biết rằng bố nó yêu
nó, bằng không tại sao bận tâm nhiều thế? Nhưng khi bố lạnh lùng, mỉa mai,
không giận, nhưng biểu lộ sự giận dữ của mình theo cách tinh tế - theo cách
lạnh lùng, cái cách ông ấy đi, cách cách ông ấy vào nhà, cái cách ông ấy nhìn
vào đứa trẻ hay không nhìn vào đứa trẻ... Lạnh lùng này chỉ ra rằng người bố
không yêu nó, không yêu nó đủ để giận dữ nóng nảy. Và điều đó đã
tạo ra lỗ hổng thế hệ ở phương Tây, không gì khác. Con cái đi theo cách của
chúng; bố mẹ vẫn còn trong xúc động chết, lạnh lẽo, bị cầm tù. Khoảng cách bao
la đã xuất hiện. Không có trao đổi. Bố không thể nói với con được bởi vì bố sợ
nếu mình nói - trao đổi thực sự, trở nên nóng - thì giận dữ sẽ tới. Cho nên tốt
hơn cả là không nói: tránh tình huống, không trao đổi. Cùng điều đó đã
xảy ra giữa vợ và chồng ở phương Tây, và bây giờ nó đang xảy ra ở phương Đông -
bởi vì trong thực tế phương Đông đang biến mất. Đến cuối thế kỉ này, cả thế
giới sẽ là phương Tây. Sẽ không có phương Đông, điều đó sẽ là nỗi luyến tiếc.
Phương Đông đang biến mất - nó sẽ có đó về mặt địa lí, nhưng trong tâm thức con
người nó sẽ không có chỗ. Điều gì đã xảy
ra ở phương Tây? Cũng cùng điều đó - nếu bạn yêu vợ mình, làm sao bạn có thể
ghét cô ấy được? Nếu bạn yêu vợ mình, làm sao bạn có thể đánh cô ấy được? Nếu
cô ấy yêu bạn, cô ấy yêu hai mươi bốn giờ một ngày, thường xuyên. Bạn đang đòi
hỏi điều không thể được. Trong cuộc sống
mọi thứ đều có nhịp điệu. Chỉ trong cái chết mọi thứ mới là tuyệt đối và không
có nhịp điệu. Trong cuộc sống có nhịp điệu - ngày tới thế rồi đêm. Heraclitus
nói: Thượng đế là mùa hè và mùa đông, ngày và đêm, đói và thoả mãn, sống và
chết. Cuộc sống là nhịp điệu, hiện tượng rung động thường xuyên giữa hai cực.
Bạn không thể yêu một người hai mươi bốn giờ một ngày được; nếu bạn cố gắng,
tình yêu sẽ trở thành chết. Bạn có thể yêu một người mãnh liệt trong vài khoảnh
khắc, thế rồi bạn phải di chuyển bởi vì bạn phải thảnh thơi. Bằng không thì
tình yêu sẽ trở thành cơn sốt thế - trạng thái sốt thế, làm sao bạn có thể vẫn
còn trong nó trong hai mươi bốn giờ được? Ngày phải được tiếp nối bởi đêm, nghỉ
ngơi, thảnh thơi. Yêu là kích động. Bạn không thể vẫn còn bị kích động mãi
được. Bạn phải yêu và bạn phải ghét cùng một người, và chẳng cái gì sai nếu bạn
yêu. Nhớ lấy, đó là vấn đề cần được ghi nhớ: nếu bạn yêu thì chẳng có gì sai.
Yêu làm thần thánh hoá mọi thứ, ngay cả ghét. Yêu làm thuần khiết mọi thứ, ngay
cả ghét. Yêu làm cho mọi thứ thành thiêng liêng, ngay cả ghét. Bạn yêu vợ mình
thế rồi bạn ghét cô ấy, cô ấy yêu bạn và cô ấy ghét bạn. Điều này làm cho cuộc
sống thành nhịp điệu. Nó không phải là đơn điệu chết. Có thay đổi tâm trạng,
thay đổi mùa vụ. Và việc thay đổi là tốt, bởi vì thay đổi là hiện tượng sống;
bằng không, nếu ai đó yêu bạn và yêu bạn và yêu bạn, thì thậm chí tình yêu cũng
sẽ trở thành nhàm chán. Và không ai có thể yêu như thế, yêu hai mươi bốn giờ
một ngày chỉ có thể là giả vờ. Cố hiểu điều
này: nếu bạn giả vờ yêu thế thì bạn có thể giả vờ hai mươi bốn giờ một ngày,
nhưng thế thì nó là giả. Chỉ hoa nhựa mới không phai nhạt, chỉ hoa nhựa mới
không chết. Nếu bạn thực sự sống thì bạn sẽ chết nữa; đó là một phần của cuộc
sống. Và chẳng có gì sai trong đó cả. Nó trở thành tội lỗi chỉ khi nó trở thành
cái toàn thể. Nếu nó được bao quanh bởi tình yêu... hòn đảo của ghét được bao
quanh bởi đại dương tình yêu là đẹp. Nó là đẹp: nó đem căng thẳng cho yêu,
thảnh thơi cho yêu. Nó đem nhịp điệu cho yêu, nó làm cho cuộc sống thành một
toàn thể hài hoà. Nghĩ về một thế giới nơi mặt trời không bao giờ lặn và bạn
phải thức hai mươi bốn giờ một ngày - trong vòng ba tuần tất cả các bạn sẽ phát
điên. Và đó là điều đã xảy ra trong tình yêu - tất cả các bạn đều đã phát điên,
giả vờ, những bộ mặt giả, mặt nạ, đạo đức giả, biểu lộ những cái không có đó... Rắc rối thực là
ở chỗ khi bạn giận dữ và bạn không biểu lộ nó, thì dần dần cơ chế kìm nén này
trở thành bắt rễ sâu đến mức mọi thứ trở thành giả. Bạn sẽ không cảm thấy yêu
mà bạn vẫn cứ biểu lộ nó, bạn sẽ không cảm thấy từ bi và bạn sẽ cứ biểu lộ nó -
thế thì cuộc sống của bạn là không chân thực, không trung thực. Cuộc sống trung
thực là giống như dòng sông: nó thay đổi, nó chuyển động. Đôi khi là mùa hè và
dòng sông đã hoàn toàn biến mất, chỉ lòng sông khô bị bỏ lại. Và đôi khi là mùa
mưa và dòng sông ngập lụt tràn khắp đôi bờ, và lan khắp mọi nơi, trở thành đại
dương. Cố nhìn xem:
trong cuộc sống có nhịp điệu giữa các cực, và nhân loại bị mắc bẫy bởi vì chúng
ta đã quyết định vẫn còn ở một cực. Bạn không thể vẫn còn ở đó được; bạn sẽ di
chuyển bên trong, chỉ trên bề mặt bạn cố gắng ra vẻ. Thế thì toàn bộ cuộc sống
trở thành bị đầu độc. Thế thì mọi thứ đi vào trong mọi thứ khác. Trong yêu của
bạn cái ghét ẩn kín, bởi vì khi có ghét bạn cố gắng mỉm cười và ra vẻ; bây giờ
nó ở trong máu bạn và khi bạn yêu thì nó được hoà lẫn vào đó. Con người bây giờ
là hiện tượng pha trộn, không thuần khiết. Và điều này đã xảy ra bởi vì những
giáo lí sai của cái gọi là người tôn giáo hay nhà đạo đức của bạn. Họ tất cả
đều cố gắng để làm cho bạn sống trên một cực. Cực đó họ gọi là Thượng đế, từ
bi, tình yêu - tất cả những cái là tốt, tất cả những người lên mặt đạo đức. Cực
kia họ gọi là quỉ, tất cả những cái xấu. Lão Tử hay tôi
- chúng tôi không thiên về phân chia này, phân đôi này, phân liệt này. Chúng tôi
ủng hộ cả hai. Và thế thì biến đổi bất thần xảy ra: phá huỷ trở thành một phần
của sáng tạo - nó hiệu hữu! - và ghét trở thành một phần của yêu. Yêu là lớn
hơn ghét, sáng tạo là lớn hơn phá huỷ. Cuộc sống là lớn hơn cái chết, và cái
chết nên là một phần của nó. Và nếu cái chết là một phần của nó, điều đó là
đẹp. Nhớ lấy điều này, và thế thì dần dần bạn sẽ thấy rằng thậm chí ghét của
bạn đã mang mầu sắc của yêu; phá huỷ của bạn đã lấy hình dáng của xây dựng,
sáng tạo, tính sáng tạo; giận dữ của bạn có từ bi trong nó. Jesus đã giận
dữ. Người Ki tô giáo đã không thể nào giải được câu đố đó mãi cho tới giờ bởi
vì họ nghĩ, "Làm sao Jesus có thể giận dữ được?" Ông ấy phải luôn
luôn mỉm cười như một chính khách. Làm sao ông ấy có thể giận dữ được? Ông ấy
đã giận dữ; ông ấy đã giận đến chết. Ông ấy đi vào đền thờ ở Jerusalem và ông
ấy giận dữ thế, ông ấy tấn công, tấn công về mặt vật lí vào những người đổi
tiền. Ông ấy phải đã thực sự cực kì giận dữ bởi vì ông ấy có một mình và ông ấy
phá rối nhiều kẻ đổi tiền. Và ông ấy tống họ ra, cả bàn ghế và tất cả mọi thứ,
ông ấy săn đuổi họ ra khỏi ngôi đền, một mình. Khi một người thực sự giận dữ
thì người đó có sức mạnh của cả trăm người. Bạn cũng có thể
đã cảm thấy điều đó. Khi bạn giận dữ, bạn có thể ném một tảng đá lớn một cách
dễ dàng, khi bạn không giận bạn không thể nào thậm chí lay chuyển được nó. Giận
dữ là năng lượng, năng lượng tập trung. Giận dữ là sự tập trung sâu sắc của
hiện hữu: một điểm, toàn bộ sự tồn tại bị quên mất, mọi năng lượng thu hẹp một
điểm. Jesus phải đã
thật đẹp vào khoảnh khắc đó. Người Ki tô giáo che giấu sự kiện này, họ cố gắng
né tránh câu chuyện này. Jesus, mà giận dữ sao? - người nói rằng nếu ai đó tát
vào má này của bạn thì chìa nốt má kia ra cho tát, mà giận dữ sao? Con người
này mà giận dữ sao? Điều đó có vẻ mâu thuẫn. Con người nói nếu ai đó giật lấy
chiếc áo khoác của bạn thì cho luôn cả chiếc áo sơ mi của bạn nữa - con người
này mà giận dữ sao? Điều đó không hợp. Nhưng tôi nói
với bạn rằng chỉ duy nhất con người này mới có thể giận dữ được bởi vì giận dữ
của ông ấy sẽ là một phần của từ bi; chỉ con người này mới có thể thực sự giận
dữ được bởi vì ông ấy biết từ bi là gì. Ông ấy đã biết cực này, ông ấy cũng
biết cả cực kia nữa và ông ấy có thể di chuyển, ông ấy sống động, ông ấy không
chết. Ông ấy không phải là một vật cố định, ông ấy không phải là một vật; ông
ấy là chuyển động sống - sống động, rộn ràng - ông ấy có thể chuyển sang cực
khác. Và ông ấy ném những kẻ đổi tiền ra khỏi đền bởi từ bi. Ông ấy giận dữ bởi
vì từ bi. Ông ấy từ bi thế, và đôi khi tôi cảm thấy rằng từ bi của ông ấy còn
sâu sắc hơn từ bi của Mahavira và Phật bởi vì nó chân thực và sống động thế.
Mahavira và Phật trông giống nhiều với tranh ảnh - cố định. Có thể đấy là bởi
vì các mô tả của đệ tử của các ông ấy, có thể chuyện thật đã không được ghi lại,
bởi vì ở Ấn Độ quan niệm rằng một người chứng ngộ không thể nào giận dữ được là
rất cổ. Nó không như vậy ở Jerusalem. Thượng đế của người Do Thái cũng có thể
giận dữ cho nên không có sợ hãi về người chứng ngộ giận dữ. Không sợ hãi. Ngay
cả Thượng đế của người Do Thái cũng có thể giận dữ. Ông ấy hành xử theo cách
rất con người. Thượng đế của người Do Thái hành xử theo cách con người, nhưng
những người Jaina giáo và Phật giáo thì bao giờ cũng được mọi người trông đợi
hành xử như một Thượng đế chết. Có thể đó là lí do tại sao các đệ tử thêm bớt
các kiếp sống của Phật và Mahavira. Họ đã chọn vài phần này và bỏ đi những phần
khác. Điều đó dường như là như vậy; có cơ sở cho người ta nói như vậy. Có hai giáo
phái của Jaina, hai giáo phái của những tín đồ của Mahavira: Svetambaras và
Digambaras. Digambaras trong câu chuyện về các kiếp của Mahavira nói rằng ông
ấy chưa bao giờ lấy vợ, rằng ông ấy vẫn còn tuyệt đối brahmachari, vô
dục, từ chính thời niên thiếu của ông ấy. Svetambaras nói rằng ông ấy đã lấy
vợ; không chỉ lấy vợ, ông ấy còn có con gái. Bây giờ vấn đề là gì? Tại sao
Digambaras nói rằng ông ấy đã không lấy vợ? Họ sợ rằng hôn nhân là hiện tượng
quá con người. Mahavira mà đi yêu phụ nữ sao? Không! Điều đó không hợp với
quan niệm của họ về tirthankara - Mahavira không chỉ trong tình yêu với một phụ
nữ và lấy vợ, mà còn làm tình với người phụ nữ đó, bởi vì con gái đã được sinh
ra. Họ không thể quan niệm nổi về Mahavira trong tư thế giao hợp. Không thể
được! Họ đơn giản vứt bỏ đi toàn bộ vấn đề bởi vì điều đó là nguy hiểm.
Mahavira chưa bao giờ lấy vợ cả. Câu chuyện của
phái Svetambaras có vẻ đúng hơn. Tại sao tôi nói vậy? Bởi vì nếu đấy mà không
là trường hợp xảy ra thì ngay cả phái Svetambaras cũng sẽ không thêm điều đó
vào. Nếu đấy đã không là trường hợp là ông ấy đã lấy vợ và con gái đã được sinh
ra cho ông ấy, thì phái Svetambaras đã không bịa thêm ra nó; nếu thế thì là
chống lại qui tắc, họ sẽ không bịa ra điều đó. Cho nên khả năng duy nhất là ở
chỗ phái Digambaras đã vứt bỏ ý tưởng này. Và về sau phái Digambaras đã vứt bỏ
toàn bộ ý tưởng về cuộc sống của Mahavira - cuộc sống là cuộc sống, nó nhất
định có cả hai cực trong nó. Cho nên phái Digambaras nói rằng câu chuyện cuộc
sống thực đã biến mất, bởi vì con người trong thời đại này không có khả năng
hiểu nó. Cho nên kinh sách gốc đã biến mất, chúng bị mất - không có chuyện về
cuộc sống của Mahavira. Họ hoàn toàn phủ nhận cuộc sống của ông ấy theo cách
này. Cho nên bạn có thể tạo ra ý tưởng về ông ấy - ông ấy là bức tranh sáp ong,
không phải là con người thực, không có tiểu sử con người, không có sinh học con
người. Phái Digambaras
nói ông ấy chưa bao giờ vã mồ hôi. Làm sao Mahavira vã mồ hôi được? Chỉ những
người bình thường yếu đuối mới vã mồ hôi. Làm sao Mahavira có thể vã mồ hôi
được? Ông ấy chưa bao giờ vã mồ hôi. Điều đó có vẻ
ngu xuẩn, có vẻ mù quáng, nhưng đây là cách chúng ta ấn định mọi thứ và thế thì
chúng ta cố gắng để làm ra các ý tưởng từ chúng - các ý tưởng giả tạo - thế thì
nhân cách giả được tạo ra quanh họ. Người Ki tô
giáo không thể làm được điều đó. Họ không thông minh được đến thế. Họ đã không
biết rằng về sau điều đó sẽ thành khó khăn. Cuộc đời của Jesus dường như thực
hơn, mang tính lịch sử hơn, nhưng thế thì có rắc rối. Với tôi thì không có rắc
rối gì. Với tôi đây là cách thức mọi việc phải thế. Chỉ một Jesus mới có thể
thực sự giận dữ, nhưng giận dữ của ông ấy là bởi vì từ bi. Bạn nghĩ: Làm sao
ông ấy có thể giận dữ được nếu ông ấy từ bi? Còn tôi nói: Ông ấy có thể giận dữ
chỉ bởi vì ông ấy từ bi. Thế thì từ bi bao giận dữ - thế thì nó thay đổi chính
phẩm chất của giận dữ, bởi vì nó trở thành một phần sống của từ bi. Một khi bạn
hấp thu cả hai, bạn có một phẩm chất khác của hiện hữu. Ghét trở thành cũng là
một phần của yêu, giận dữ là một phần của từ bi. Đừng cố gắng
chọn lựa. Thay vì thế vẫn còn vô chọn lựa và tạo ra hài hoà, trở thành hài hoà.
Đừng tạo ra bất kì xung đột nào bên trong bạn - dù bạn là bất kì cái gì, bạn
đều đẹp. Bạn có tất cả các chất liệu để tạo ra hài hoà. Nếu bạn loại bỏ cái gì
đó, về sau bạn sẽ hối hận bởi vì phần bị loại bỏ đó một ngày nào đó sẽ được cần
tới. Một ngày nào đó bạn sẽ bỏ lỡ nó và thế thì bạn sẽ thấy rằng nó là cần
thiết. Nó đã có đó, và bạn đã loại bỏ nó. Đừng loại bỏ cái gì cả. Dùng mọi thứ
mà Thượng đế đã trao cho bạn, làm ra hài hoà từ nó. Hài hoà nên là mục tiêu. Câu hỏi thứ ba: Thầy nói
rằng chỉ ở trong sự hiện hữu của bậc thầy đã chứng ngộ sẽ làm biến đổi. Trước
khi tới thầy tôi cảm thấy ít nhiều độc lập. Từ khi ở với thầy tôi dường như đã
trở nên hoàn toàn phụ thuộc vào thầy. Thầy là ánh sáng trong cuộc đời tôi. Khi tôi
nghĩ thầy sẽ ra đi tôi bị lâm vào kinh hoàng. Đây có phải là giai đoạn tự nhiên
sẽ tự nó trôi qua hay cái gì đó sai? Đấy là giai
đoạn tự nhiên nếu bạn cho phép nó trôi qua. Nếu bạn níu bám lấy nó, thế thì cái
gì đó đi sai. Có ba bước
trong trưởng thành tâm linh - bước hay giai đoạn. Chúng có thể khác nhau cho
từng cá nhân nhưng bao giờ cũng có ba. Một là độc lập. Đó là trạng thái bản
ngã: bạn muốn độc lập với tất cả những cái giả, là không thể được bởi vì bạn
không độc lập, bạn không thể thế được. Bạn là một phần của cái toàn thể bao la
này, của vũ trụ này. Làm sao bạn có thể độc lập được? Bạn phải phụ thuộc vào
hàng triệu, hàng triệu thứ. Bạn phải phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời, vào cuộc
sống theo mặt trời, bạn phải phụ thuộc vào cuộc sống theo không khí, theo ô xi,
bạn phải phụ thuộc vào cây cối lấy làm thức ăn. Làm sao bạn có thể độc lập
được? Bạn không thể thế được. Đó là nỗ lực bản ngã và nhất định thất bại. Khi độc lập
thất bại, bỗng nhiên phụ thuộc nảy sinh; bạn chuyển sang cực bên kia. Bởi vì
bạn không biết cách ở giữa và cách tạo ra hài hoà, nên bạn chuyển sang cực bên
kia. Thế thì bạn trở thành bị phụ thuộc. Thế thì bạn trở nên sợ hãi rằng nếu
đối tượng của sự phụ thuộc của bạn bị mất đi, điều gì sẽ xảy ra cho bạn? Thế
thì có hoảng hốt. Nhưng đây là trạng thái thứ hai: độc lập là giả, phụ thuộc
cũng là giả. Thế rồi có điểm
thứ ba phải được đạt tới, điều tôi gọi là hài hoà. Đó là tương thuộc - cảm giác
về tương thuộc - bạn phụ thuộc vào cái toàn thể, và không chỉ điều đó, cái toàn
thể phụ thuộc vào bạn. Tôi nhớ tới một nhà huyền môn Do Thái, nhà huyền môn Hassid,
Zusiya, người hay nói với Thượng đế trong mọi lời cầu nguyện: "Con biết
Thượng đế, rằng con phụ thuộc vào ngài, nhưng ngài cũng phải biết rằng ngài phụ
thuộc vào con. Con biết rằng không có ngài con không thể tồn tại được, nhưng
xin để con nhắc ngài rằng không có con thì ngài cũng không thể hiện hữu
được." Làm sao Thượng
đế có thể có đó mà không có bạn? - không thể được. Các nhà khoa
học nói rằng cây cỏ, cây cối, toàn bộ thực vật trên trái đất, đều phụ thuộc vào
mặt trời, không có mặt trời, chúng không thể hiện hữu. Nhưng bây giờ họ đã bắt
đầu hoài nghi rằng ý tưởng này về lưu thông một chiều phải sai ở đâu đó, bởi vì
trong cuộc sống bao giờ cũng là lưu thông hai chiều, chưa bao giờ là lưu thông
một chiều. Nếu cây cỏ phụ thuộc vào mặt trời, bằng cách nào đó mặt trời phải
phụ thuộc vào cây cỏ, bởi vì đấy là việc cho và nhận lẫn nhau. Họ đã bắt đầu
hoài nghi, và chẳng chóng thì chầy họ sẽ phát hiện ra cách mặt trời phụ thuộc
vào cây cỏ. Mọi thứ đều phụ
thuộc vào mọi thứ khác. Bạn cảm thấy hạnh phúc khi bạn nhìn vào một đoá hoa,
bông hồng - hạnh phúc của bạn được tạo ra bởi hoa hồng. Bây giờ các nhà khoa
học đã chứng minh rằng khi bạn hạnh phúc thì hoa hồng cũng cảm thấy hạnh phúc.
Nó phụ thuộc vào bạn, nó chờ đợi bạn tới và nếu bạn không tới thì nó cũng giống
hệt người yêu, cảm thấy rất buồn. Không, đấy là một sự kiện khoa học chứ không
phải thơ ca. Bây giờ điều đó đã được chứng minh hoàn toàn rằng khi một người
yêu tới một bụi hồng thì cả bụi hồng xúc động, mở hội; điều đó phụ thuộc vào
bạn. Bây giờ họ nói rằng nếu bạn yêu bụi hồng thì nó sẽ lớn nhanh hơn, nó sẽ
tạo ra hoa to hơn bởi vì ai đó có đó để chăm sóc và yêu và nhìn. Và ai đó chờ
đợi. Làm sao bụi hồng có thể phản bội bạn được? Nó phải tạo ra đoá hoa lớn hơn.
Nếu không ai yêu, và vườn bị quên lãng, và không ai bận tâm, chỉ người hầu tới
và tưới nước cho cây cỏ mà không có chăm sóc gì, thế thì bụi hồng đem tới hoa
to hơn để làm gì, cho ai? Thế thì hoa nhỏ cũng đủ; thậm chí không có hoa cũng
chẳng hại gì. Ra hoa cho ai? Nở hoa cho ai? Bụi hồng phụ thuộc vào bạn. Đừng bao giờ đi
qua cây mà không nói lời chào trong tim bạn; đừng bao giờ đi qua cây mà không
nhìn vào nó với chăm nom và quan tâm sâu sắc. Điều đó chẳng tốn phí gì. Và nhớ:
nếu bạn có thể làm cho cây hạnh phúc, cây sẽ làm cho bạn hạnh phúc. Bạn có thể
thử thực nghiệm này, nó là đơn giản - chẳng cần gì tới những dụng cụ thí nghiệm
to lớn cho nó. Đấy đơn giản chỉ là một thực nghiệm. Bạn chọn một cây, một cây
trong vườn nhà bạn hay trong vườn cây công cộng. Tới cây đó hàng ngày, nói với
nó, trở nên thân thiết. Khó thuyết phục
cây bởi vì con người đã đối xử với cây tồi tệ tới mức chúng đã trở nên sợ hãi
tất cả con người. Khoảnh khắc bạn đi vào tất cả các cây đều nói: Con người đang
tới kia - con vật nguy hiểm nhất trên trái đất. Nó có thể gây hại chẳng có
nguyên nhân gì. Không con vật nào làm điều đó. Nếu con bò đói, nó sẽ ăn cỏ,
nhưng con người có thể đơn giản ngồi và cứ bứt cỏ, chẳng có lí do nào cả. Người
đó không đói, người đó không định ăn nó. Tại sao bạn bứt nó? Tại sao bạn phá
huỷ nó? Tính phá huỷ bên trong của tâm trí, tâm trí phá huỷ bên trong, mang
tính phá huỷ. Bạn đi qua cây, bạn bẻ cành nó - và thế rồi bạn quẳng cành đi.
Bạn có hoàn toàn ngủ không đấy? Nếu bạn cần lấy làm thức ăn... thế thì nữa...
Toàn bộ truyền thống trong mọi xã hội nguyên thuỷ, các tri thức truyền thống cổ
ở Mexico, trong các bộ tộc thổ dân ở Ấn Độ, ở Thái Lan, ở nhiều nước, đều nói: Đi
tới cây. Nếu bạn cần điều gì đó, xin cây. Nếu bạn cần vài cái lá, năm cái lá
cho việc tôn thờ của mình, xin cây, xin phép, rồi bứt lá một cách cẩn thận hết
sức. Đừng làm đau cây. Thế thì cây bao giờ cũng sẵn sàng cho và sẽ không có cảm
giác đau để lại sau. Và cám ơn cây: Cây đã cho tôi năm cái lá khi tôi cần tới
chúng. Bất kì khi nào cây cần cái gì đó, đừng xấu hổ, nói với tôi. Đi ra cây, nói
chuyện với cây, chạm vào cây, ôm lấy cây, cảm lấy cây. Chỉ ngồi bên cạnh cây,
cứ để cho cây cảm thấy bạn, rằng bạn là người tốt và bạn không trong tâm trạng
gây hại. Dần dần tình bạn nảy sinh và bạn sẽ bắt đầu cảm thấy rằng khi bạn đi
tới, đặc tính của cây lập tức thay đổi. Bạn sẽ cảm thấy điều đó. Trên vỏ cây
bạn sẽ cảm thấy năng lượng mãnh liệt chuyển động khi bạn tới; khi bạn chạm vào
cây, nó hạnh phúc như đứa trẻ, như người yêu; khi bạn ngồi bên cạnh cây, bạn sẽ
cảm thấy nhiều điều. Chẳng mấy chốc bạn sẽ có khả năng nếu bạn buồn mà tới cây,
và chỉ trong sự hiện diện của cây, nỗi buồn của bạn sẽ biến mất. Chỉ thế thì
bạn mới có khả năng hiểu rằng bạn mang tính tương thuộc - bạn có thể làm cho
cây hạnh phúc và cây có thể làm cho bạn hạnh phúc. Và toàn thể cuộc sống là
tương thuộc. Tương thuộc này tôi gọi là Thượng đế, Lão Tử gọi là Đạo - tương
thuộc toàn thể này. Thượng đế không
phải là người ngồi ở đâu đó, toàn thể tương thuộc này là Thượng đế, Đạo, dharma.
Kinh Vedas gọi nó là rit, luật. Dù bạn muốn gọi nó là bất kì cái gì, cứ
gọi nó, nhưng tương thuộc này là cái toàn thể. Và nếu ở gần tôi bạn có thể học tương
thuộc, bạn đã học được tất cả. Trước hết độc
lập của bạn sẽ bị vứt bỏ - điều đó không phải rất khó, bởi vì độc lập bạn cảm
thấy đó nặng gánh thế, bạn bao giờ cũng sẵn sàng vứt bỏ gánh nặng đó. Điều đó
không phải rất khó. Thế rồi bạn trở thành phụ thuộc. Điều đó có thể khó hơn,
bởi vì khi gánh nặng được quẳng vào ai đó khác, bạn cảm thấy tốt, nhẹ gánh, vô
trọng lượng. Thế rồi hoảng hốt tới: Nếu người này rời bỏ thế giới này, không
còn nữa trong thân thể, thế thì cái gì sẽ xảy ra? Thế thì bạn sợ hãi, thế thì -
kinh hoàng. Đừng níu bám
vào điều đó. Đây là một pha - cũng hệt như pha đầu tiên, đây cũng là một pha,
đây là mặt đảo ngược của pha đầu. Cố cảm thấy ngày một tương thuộc nhiều hơn. Tôi đang nói
với bạn ở đây. Nếu bạn mà không ở đây và ai đó khác ở đây, nếu thậm chí một
người khác mà ở đây, tôi sẽ không nói cùng một điều. Điều đó là không thể được,
bởi vì tôi không có tâm trí để nói. Tôi đơn giản đáp ứng với bạn. Bạn tạo ra
tình huống, bạn ở đây - và tôi nói. Nếu ai đó không hiện diện ở đây hôm nay mà
đã từng hiện diện thì tôi sẽ không nói cùng điều. Điều đó sẽ là không thể được,
bởi vì sự hiện diện của người đó sẽ tạo ra một tình huống khác. Tôi không nói
trong chân không, tôi đang nói với bạn. Và tôi không nói từ tâm trí, bởi vì khi
bạn nói từ tâm trí thì bạn không bận tâm ai có đó, bạn có điều gì đó để nói và
bạn nói chúng. Tôi có một thầy
giáo, ông ấy thực sự là một triết gia. Và ông ấy là người khùng - như mọi triết
gia đều thế - đến mức trong nhiều năm chẳng ai tham gia vào chủ đề của ông ấy.
Ông ấy là người lập dị và không thể nào cho qua được chủ đề của ông ấy bởi vì
ông ấy hoặc đưa ra một trăm phần trăm hoặc ông ấy sẽ cho số không. Không có nửa
đường cho ông ấy - hoặc có hoặc không. Ông ấy hoàn toàn là người theo Aristote.
"Hoặc anh đúng hoặc anh sai," ông ấy hay nói, "không có gì ở
giữa." Cho nên sinh viên sợ lắm. Nhưng tôi thích con người này. Ông ấy
thực đáng quan sát, và chỉ có một cách quan sát ông ấy: tham gia vào chủ đề của
ông ấy. Cho nên tôi là sinh viên duy nhất. Và đây là cách
thức của ông ấy - ngày đầu tiên ông ấy bảo tôi, "Nhớ đấy, tôi có thể bắt
đầu vào lúc chuông của trường đại học nhưng tôi không thể nào dừng được. Chừng
nào mà tôi chưa kết thúc bất kì điều gì tôi đang nói thì tôi không thể dừng
được. Cho nên thời gian học sẽ bắt đầu với tiếng chuông, nhưng chúng sẽ không
bao giờ dừng với tiếng chuông. Đôi khi tôi sẽ nói chỉ hai mươi phút rồi kết
thúc, đôi khi tôi nói hai hay ba tiếng. Cho nên nếu anh cảm thấy rất chán hay
ngán, hay nếu anh muốn đi tắm hay làm cái gì đó thì anh có thể đi, nhưng đừng
có quấy rầy tôi." Và tôi là sinh viên duy nhất! "Anh có thể đi và anh
có thể tới, nhưng đi và tới theo cách mà tôi không bị quấy rối; tôi sẽ tiếp
tục." Ngày đầu tiên
tôi thử. Tôi tò mò để xem liệu ông ấy có thực làm điều đó hay không. Ông ấy ngụ
ý điều đó chăng? Ông ấy ngụ ý điều đó. Khi tôi rời khỏi phòng, ông ấy vẫn tiếp
tục, khi tôi trở lại ông ấy vẫn tiếp tục. Trong hai năm
tôi ở cùng ông ấy. Đôi khi tôi đi hàng giờ, bởi vì tôi có thói quen ngủ. Sau
mười một giờ ba mươi thì khó cho tôi mà không ngủ, cho nên đến mười một giờ ba
mươi tôi sẽ về phòng kí túc xá của mình và tôi sẽ ngủ một giấc một tiếng, thế
rồi tôi sẽ quay và ông ấy vẫn cứ nói. Ông ấy đã hoàn toàn điên. Ông ấy mới
thực là một triết gia. Nhưng tôi không
nói với bạn theo cách đó. Tôi không phải là triết gia chút nào. Tôi đang nói
với bạn: đấy là sự tương - thuộc. Bất kì điều gì tôi nói, bạn đều có
trách nhiệm cho nó cũng nhiều như tôi có trách nhiệm, bởi vì bạn gợi ra nó. Bạn
và tôi, đây chỉ là các cực đối lập. Cái gì đó giữa chúng ta được tạo ra, đó là
điều đang xảy ra. Khi tôi nói với bạn, đấy không phải là tôi đang nói với bạn
đâu, không phải là bạn đang nghe tôi đâu; chúng ta đang nói cho chúng ta đấy.
Chúng ta đang nói cho chúng ta đấy - đây là sự tương thuộc. Bạn đang nói
qua tôi, tôi đang nghe qua bạn - đây là sự tương thuộc. Bạn đã vứt bỏ độc
lập, bây giờ vứt bỏ nốt phụ thuộc nữa - trở thành tương thuộc. Và điều này là
việc học ở đây, để cho sự tương thuộc của bạn lan toả ra toàn bộ sự tồn tại -
cảm thấy sự tương thuộc ở mọi nơi. Và bạn hiện hữu! - đó là thực tại. Phụ thuộc
là giả; độc lập là giả; chỉ tương thuộc mới là thật, chỉ Thượng đế mới là đúng.
Thượng đế là sự tương thuộc. Câu hỏi thứ tư: Theo thầy,
đàn bà gần với cái toàn thể hơn đàn ông. Thế thì làm sao ít đàn bà đạt tới
chứng ngộ thế? Cũng không ít
đến thế đây. Đích xác cùng số đàn bà đạt tới chứng ngộ như đàn ông, nhưng họ đã
không làm ồn ào về điều đó nhiều như đàn ông - có vậy thôi. Họ không quảng cáo
điều đó nhiều như đàn ông. Họ tận hưởng điều đó. Đó là cách thức của đàn bà,
hiện hữu nữ tính. Đàn ông thích
nói về chứng ngộ của mình hơn bản thân việc chứng ngộ. Anh ta quan tâm tới bao
nhiêu người đã đi tới biết rằng anh ta đã trở nên chứng ngộ. Đàn bà không lo
nghĩ. Họ không lo nghĩ chút nào. Nếu điều đó xảy ra, họ tận hưởng nó, họ nuôi
dưỡng nó sâu bên dưới. Nó trở thành việc mang thai. Họ sống với nó; họ không
nói về nó. Đó là lí do tại sao bạn không biết nhiều cái tên. Chỉ vài cái tên là
được biết và đấy là những đàn bà có phẩm chất của đàn ông trong mình, đó là lí
do tại sao bạn biết. Bằng không thì bạn sẽ không biết họ. Tại Kashmir có
một người đàn bà có tên Lalla. Tại Kashmir họ có câu ngạn ngữ: Chúng tôi chỉ
biết tới hai cái tên - Allah và Lalla. Lalla là một người đàn bà hiếm hoi, vị
phật, nhưng bà ấy phải đã không rất nữ tính; bà ấy phải có nhiều chút xíu tâm
trí nam tính hơn tâm trí nữ tính. Bà ấy đã sống toàn bộ cuộc sống của mình ở trần.
Bà ấy là người đàn bà duy nhất trên thế giới đã làm điều đó. Nhiều đàn ông đã
sống ở trần: Mahavira, Diogenes, tất cả các tirthankaras của Jaina,
và hàng nghìn người khác, nhưng chỉ một phụ nữ. Điều đó có vẻ rất không nữ
tính, bởi vì chính bản chất của tâm trí nữ tính là che giấu, không biểu lộ - che
giấu trong cái hang bên trong. Lalla được biết tới là người đàn bà chứng ngộ;
vài phụ nữ khác cũng được biết tới là chứng ngộ. Một phụ nữ,
Maitreyi, được biết tới trong những ngày của Upanishads, nhưng bà ấy phải đã là
một kiểu rất nam tính. Tương truyền
rằng vua Janak đã triệu tập một cuộc tranh luận lớn trong số tất cả những người
có học của vương quốc mình để quyết định về câu hỏi tối thượng: Thực tại là gì?
Nó sẽ là một cuộc thảo luận lớn và tất cả mọi người có học, tất cả mọi bác học
của đất nước đều tụ hội lại. Và sẽ có một giải thưởng lớn cho người thắng cuộc
- một nghìn con bò, những con tốt nhất của đất nước, với sừng bọc vàng, với đồ
châu báu đeo quanh cổ chúng. Chúng đang đứng đó bên ngoài cung điện - một nghìn
con bò. Bất kì ai chiến thắng cuộc tranh luận đều sẽ được số bò này. Yagnavalkya tới
- một trong những người đàn ông có học vĩ đại của thời đó - và vào lúc đó ông
ấy phải chưa chứng ngộ, về sau ông ấy mới trở thành hiền nhân chứng ngộ. Ông ấy
tới với các đệ tử của mình - ông ấy là một thầy giáo lớn - và ông ấy kiêu ngạo,
như mọi học giả đến mức ông ấy bảo đệ tử của mình, "Các con lấy những con
bò này đi. Ta sẽ quyết định vấn đề sau, nhưng trước hết các con lấy những con
bò này đi bởi vì trời quá nóng và bò đang phải chịu nóng." Ông ta phải rất
kiêu căng - chắc chắn thế. Chỉ người dốt
nát mới chắc chắn như vậy. Người trí huệ bao giờ cũng ngần ngại bởi vì vấn đề
bao la thế - và làm sao quyết định được bản chất tối thượng của thực tại? Ai có
thể quyết định được nó? Tất cả các học
giả khác đều thấy bực mình nhưng họ không thể nói được điều gì bởi vì họ biết
rằng họ không thể đánh bại con người này bằng lập luận. Trong biện luận ông ấy
là siêu phàm. Và ông ấy biện minh, và ông ấy đánh bại tất cả. Nhưng một phụ
nữ ngồi đó; bà ấy là người phụ nữ duy nhất, và bà ấy chẳng nói gì. Bà ấy là
Maitreyi. Và thế rồi bà ấy đứng dậy vào lúc cuối, khi cuộc tranh cãi gần như đã
chấm dứt và ông ta đang sắp được công bố là người chiến thắng. Bà ấy nói,
"Đợi đấy. Ta phải hỏi vài câu hỏi." Và bà ấy hỏi những câu hỏi đơn
giản; nhưng trong thực tế những câu hỏi đơn giản không thể được trả lời. Bà ấy hỏi,
"Đất này dựa lên cái gì? Ai đỡ cho đất này?" Truyền thống Ấn
Độ cổ nói đất được tám con voi đỡ, những con voi trắng to lớn. Cho nên
Yagnavalkya đã lặp truyền thống cổ đó, rằng đất được tám con voi đỡ: "Bà
có hoàn toàn vô học vấn không, bà không biết tới cả điều này nữa sao?" Người phụ nữ
này hỏi, "Thế thì những con voi này dựa trên ai?" Bây giờ
Yagnavalkya nghi ngờ có rắc rối. Cho nên ông ấy nói, "Dựa vào Brahma, vào
Thượng đế." Và ông ấy nghĩ rằng bây giờ bà ấy phải dừng. Nhưng bà ấy
nói, "Tôi muốn hỏi Thượng đế của ông dựa vào ai, dựa vào cái gì?" Yagnavalkya trở
nên giận dữ, và ông ấy nói "Cái bà này! Dừng ngay! Bằng không thì đầu bà
sẽ rơi đấy. Bà sẽ bị giết!" Người phụ nữ
này về sau đã trở nên chứng ngộ. Nhưng bà ấy phải đã là một kiểu rất đàn ông.
Bà ấy biện minh và thậm chí đẩy Yagnavalkya vào rắc rối và trong thực tế bà ấy
vẫn còn im lặng nhưng bà ấy không thất bại - bất kì ai cũng có thể thấy điều
đó. Trong thực tế Yagnavalkya đã bị thất bại. Nếu như tôi mà là giám khảo, thì
bà ấy đã thắng và bò đáng đã phải được trao cho bà ấy. Bởi vì đây không phải là
biện luận, việc nói rằng đầu bạn sẽ bị rơi. Đây không phải là biện luận. Giận
dữ không là biện luận, bạo hành không là biện luận; theo cách này bạn có thể
kìm ai đó im lặng nhưng bạn đã không thắng được cuộc tranh luận. Người phụ nữ
này đã trở nên chứng ngộ nhưng bà ấy phải đã là một kiểu đàn ông. Bằng không
thì không phụ nữ nào bận tâm tới tranh luận về những điều như vậy. Có lần tôi hỏi
Mulla Nasruddin, "Mọi sự xảy ra giữa anh và vợ anh thế nào? Tôi chưa bao
giờ thấy bất kì biện luận nào cả." Anh ta nói,
"Ngày đầu tiên chúng tôi đã quyết định một điều và chúng tôi đã tuân theo
nó cho nên mọi sự đều diễn ra rất rất tốt." Tôi nói,
"Anh nói cho tôi, bởi vì nhiều người tới tôi hỏi xin lời khuyên về các vấn
đề, cho nên tôi có thể gợi ý điều đó cho họ." Anh ta nói,
"Đấy là luật đơn giản. Chúng tôi đã quyết định rằng về những câu hỏi tối
thượng, câu hỏi cuối cùng, những vấn đề lớn, thì lời khuyên của tôi sẽ là cuối
cùng. Còn trên những việc nhỏ mọn, việc lặt vặt, thì lời khuyên của cô ấy sẽ là
cuối cùng." Thế là tôi nói,
"Đây là một quyết định rất tốt. Thế thì vấn đề gì anh gọi là lặt vặt và
vấn đề gì anh gọi là lớn lao?" Anh ta nói,
"Chẳng hạn, chúng tôi nên đi xem phim gì, chúng tôi nên ăn kiểu thức ăn
gì, chúng tôi nên đến nhà hàng nào, chúng tôi nên gửi con tới đâu, tới trường
cao đẳng nào hay đại học nào, nên trao cho chúng kiểu giáo dục nào, nên mua
kiểu quần áo nào, kiểu nhà và ô tô nào - những cái này đều là điều lặt vặt. Cô
ấy quyết định." Thế là tôi hỏi,
"Thế thì những vấn đề lớn lao là gì?" Anh ta nói,
"Liệu Thượng đế có tồn tại hay không. Những vấn đề lớn thì tôi quyết
định!" Đàn bà thực sự
chẳng bao giờ quan tâm tới những vấn đề lớn lao bởi vì họ biết sâu bên dưới
chúng là ngu xuẩn. Bạn có thể quyết định liệu Thượng đế có tồn tại hay không,
hay bao nhiêu thiên thần có thể nhảy múa trên đầu ghim - bạn có thể quyết định. Và Nasruddin
bảo tôi, "Việc thu xếp này đã tốt đến mức không một sự tranh biện nào nảy
sinh - tôi bao giờ cũng quyết định những vấn đề lớn lao, cô ấy bao giờ cũng
quyết định những vấn đề nhỏ bé. Và mọi sự diễn ra trôi chảy." Dần dần mọi
người chồng đều đi tới biết rằng mình được tự do chỉ để quyết định các vấn đề
siêu hình - thế giới khác. Không đàn bà nào quan tâm tới việc viết kinh sách.
Họ chưa bao giờ viết ra cái gì. Nhưng điều đó không có nghĩa là đàn bà đã không
trở nên chứng ngộ - cùng số lượng người chứng ngộ là như nhau. Cuộc sống tuân
theo một tỉ lệ. Nó phải là như vậy, bằng không thì quân bình sẽ bị mất. Cuộc
sống hoàn toàn tuân theo một tỉ lệ. Tôi muốn bảo
bạn một điều; có thể điều đó sẽ gợi ý ra cái gì đó cho bạn. Cứ một trăm con
gái, thì có một trăm mười lăm con trai được sinh ra. Và điều này đã là vấn đề
cho các nhà sinh học. Sao điều này xảy ra? Bao giờ cũng vậy - với một trăm con
gái thì một trăm mười lăm con trai được sinh ra, và đến tuổi hôn nhân mười lăm
con trai đã chết đi. Cho nên tỉ lệ vẫn còn như nhau, bởi vì con trai yếu hơn
con gái và nhiều con gái sống sót hơn. Cho nên tự nhiên có sự quân bình: từ
ngay ban đầu đã có thêm mười lăm con trai, dự phòng, bởi vì chúng sẽ chết. Vào
lúc mùa hôn nhân tới, một trăm con gái sẽ có đó, và nếu chỉ một trăm con trai
được sinh ra thế thì chỉ tám mươi nhăm con trai là còn lại, và hai mươi con gái
sẽ bị bỏ lại không có chồng. Điều đó không phải là sự sắp xếp tốt. Một trăm mười
lăm con trai được sinh ra để cho vào lúc tuổi hôn nhân tới thì con số là như
nhau. Điều này không thể nào được giải quyết - cách thức tự nhiên thu xếp điều
này, bằng phương pháp nào, làm sao ra tỉ lệ này. Và thế rồi,
trong hai cuộc chiến tranh thế giới một vấn đề khác nảy sinh, bởi vì trong
chiến tranh tỉ lệ này trở nên rất không tỉ lệ. Sau chiến tranh thế giới thứ
nhất và sau mọi cuộc chiến tranh thì nhiều trẻ con lại được sinh ra hơn. Điều
đó nữa cũng là cái gì đó. Trong chiến tranh nhiều người chết; ngay lập tức tự
nhiên phải làm việc thu xếp. Một lực không biết nào đó, một lực vô ý thức nào
đó cứ làm việc. Sau chiến tranh nhiều trẻ con được sinh ra, nhưng điều đó nữa
cũng không khó hiểu bởi vì điều đó có thể được giải thích theo cách khác - có
thể lính tráng trở về nhà rất thèm khát dục và họ làm tình nhiều hơn. Đấy có thể
là nguyên nhân cho điều đó. Nếu đấy là điều duy nhất, thì điều đó có thể đã
được giải thích - nhưng nhiều con trai hơn được sinh ra, và ít con gái được
sinh ra, bởi vì trong chiến tranh đàn ông chết, đàn bà còn lại. Nhiều đàn ông
chết trong chiến tranh hơn đàn bà, bởi vì tất cả lính tráng đều là đàn ông, cho
nên tỉ lệ thông thường về một trăm so với một trăm mười lăm thay đổi đi. Với
một trăm con gái gần ba trăm con trai được sinh ra. Có quân bình
tinh tế ở đâu đó. Trong thực tế, với mỗi đàn ông một đàn bà tồn tại; với mỗi
đàn bà một đàn ông tồn tại - họ là bộ phận của một toàn thể. Bất kì khi nào một
đàn ông trở nên chứng ngộ, thì một đàn bà cũng phải trở nên chứng ngộ. Bởi vì
một đàn ông được giải phóng khỏi sự tồn tại, bây giờ người đó sẽ không quay lại;
người đó sẽ không còn đi vào bụng mẹ, vào thế giới nữa. Tại đâu đó một đàn bà
phải được thoát khỏi tù túng. Cho nên đây là hiểu biết của tôi: cùng số đàn ông
và đàn bà, cùng số lượng, đã trở nên chứng ngộ, nhưng đàn bà không được biết
tới bởi vì họ không làm ồn ào về điều đó. Họ tận hưởng nó. Thầy bao giờ
cũng nói đợi và thấy. Đợi, tôi có thể hiểu được. Nhưng làm sao để thấy? Bạn không cần
phải lo nghĩ về điều đó. Bạn đơn giản chờ đợi và việc thấy sẽ tới với bạn.
Không cần lo nghĩ về nó. Chờ đợi cho bạn sự sáng suốt. Khi tôi nói, "Đợi
và thấy" tôi không ngụ ý rằng bạn phải làm cả hai. Tôi đơn giản nói đợi và
bạn sẽ thấy. Trong thực tế, chờ đợi và việc thấy sẽ tới với bạn. Chờ đợi tạo ra
việc thấy. Kiên nhẫn tạo ra khả năng. Kiên nhẫn tuyệt đối tạo ra khả năng tuyệt
đối để thấy. Trong tâm trí căng thẳng, nóng vội, mắt bị khép kín, đầy khói -
chúng không thể thấy được. Khi bạn im lặng chờ đợi, dần dần mây biến mất khỏi
mắt, bởi vì chúng do nóng vội tạo ra. Khi bạn kiên nhẫn chờ đợi, chúng biến
mất. Tầm nhìn trở nên rõ ràng, sáng tỏ được đạt tới. Bạn có thể thấy. Đợi và
thấy - khi tôi nói điều này tôi không ngụ ý rằng bạn phải làm cả hai, tôi ngụ ý
đợi, và bạn sẽ thấy. Việc thấy sẽ tự nó tới, theo cách của nó. Bạn đơn giản
đợi. Bạn có hiểu tôi không? Nếu bạn có thể
chờ đợi, điều đó nghĩa là bạn đã vứt bỏ được tâm trí đạt tới, tâm trí thành
đạt; bạn đã vứt bỏ được tâm trí ham muốn. Chỉ thế thì bạn mới có thể chờ đợi
được. Chờ đợi có nghĩa là bây giờ bạn ở đây và bây giờ, khoảnh khắc này là đủ,
khoảnh khắc này là tất cả - và bỗng nhiên mắt sáng tỏ. Không đám mây nào lang
thang trong mắt - không khói. Ngọn lửa cháy sáng mà không khói. Và bạn thấy. Về nguy hiểm của thành công quá mức Giương cung hết mức Sẽ ước dừng đúng lúc. Mài kiếm sắc bén, Không bén được lâu. Vàng ngọc đầy nhà, Khó mà giữ lâu. Giàu sang mà kiêu, Tự vời hoạ ưu. Nên việc, lui thân, Đó là đạo trời. Về nguy hiểm của thành công quá
mức Logic đi tới
chính cực đoan - cuộc sống thì không bao giờ. Đó là cách logic bỏ lỡ cuộc sống.
Logic có khuynh hướng đạt tới kết luận - cuộc sống không bao giờ kết luận. Cuộc sống không
có kết luận. Nó cứ tiếp diễn mãi mà không có kết luận nào; nó không có bất kì
cái bắt đầu và cái kết thúc nào, nó bao giờ cũng ở giữa, nó bao giờ cũng trong
hiện tại, nó là quá trình tiếp diễn. Đó là cách tâm trí logic dần trở nên chết;
đó là cách logic trở thành sự suy sụp của riêng nó. Đừng kết luận. Sống mà
không kết luận. Đó là cách duy nhất để sống bởi vì chỉ thế thì bạn mới sống ở
giữa và chỗ giữa là quân bình. Cuộc sống là
quân bình giữa các cái đối lập, nó không bao giờ đi tới chất dứt. Quân bình
tiếp diễn mãi, nó là vĩnh hằng. Con người của hiểu biết chưa bao giờ đi tới bất
kì kết luận nào, người đó không thể thế được. Khi bản thân cuộc sống là không
kết luận, làm sao người trí huệ có thể mang tính kết luận được? Nếu bạn hỏi Lão
Tử về bất kì câu trả lời mang tính kết luận nào, ông ấy sẽ cười to. Ông ấy sẽ
nói bạn ngu. Ông ấy sống theo cuộc sống, và điều lưu ý cơ sở nhất, nếu bạn sống
theo cuộc sống, là quân bình. Đừng bao giờ đi tới một cực; thế thì bạn sẽ làm
mất quân bình. Tôi đã từng
nghe: Có lần chuyện
xảy ra là một nhà vua vĩ đại phải quyết định điều gì đó ngược với trái tim
mình. Hai trong các quan thượng thư của ông ấy đã phạm tội nào đó mà ông ấy thì
yêu các quan thượng thư này lắm. Cho dù họ có phạm tội thì ông ấy vẫn muốn tha
cho họ, tình yêu của ông ấy với họ đạt tới mức đó. Nhưng điều đó đi ngược lại
luật pháp của đất nước, và điều đó sẽ là một tiền lệ không tốt. Cho nên họ phải
bị trừng phạt. Và luật của đất nước nói rằng với tội như vậy thì cách trừng
phạt duy nhất là cái chết. Vậy phải làm gì đây? Điều đó rất
khó, cho nên ông ấy đã tìm một lối thoát. Ông ấy nói, "Họ phải bị tử hình,
nhưng ta sẽ cho họ một cơ hội sống nữa. Giữa hai ngọn đồi này một chiếc dây sẽ
được chăng qua. Nếu họ có thể bước qua trên nó và vẫn sống, thế thì ta sẽ tha
cho họ." Điều đó gần như
là không thể được. Điều đó là không thể được bởi vì họ chưa bao giờ bước trên
bất kì dây nào cả, một mình bước trên một cái dây chăng giữa hai ngọn đồi trên
một thung lũng lớn - cái chết ở mọi nơi. Và bước đi trên dây là một nghệ thuật
lớn, người ta phải học nó, đấy là một bộ môn lớn. Họ thậm chí trong các kiếp
sống của mình cũng chưa từng mơ rằng họ sẽ trở thành người đi trên dây. Một trong hai
người không thể nào ngủ được. Cả đêm người đó cầu nguyện Thượng đế giúp mình.
Người đó không thể nào uống được trà vào buổi sáng. Người đó tới chỗ mà hiện
tượng này sắp xảy ra; cả thủ đô đã tụ tập . Người kia, biết
rõ rằng mình chẳng biết gì về việc đi trên dây cả, rằng chẳng cái gì có thể
được làm và gần như chắc chắn rằng mình sắp sửa chết, cho nên tại sao không ngủ
ngon? - ông ta ngủ. Buổi sáng ông ta vẫn uống trà như thường lệ. Ông ta đi dạo
nhàn nhã, đi tới chỗ đó. Người kia thì run rẩy, phát sốt, nhưng ông này lại yên
tĩnh và bình thản vẫn biết rõ rằng cái chết sắp xảy ra - và khi nó là chắc chắn
thì sao phải bận tâm? Chết cho bình thản. Ông ấy bắt đầu
bước lên dây, và điều kì diệu của những điều kì diệu - ông ấy đã bước đi! Không ai có thể
tin được vào điều đó! Thậm chí người đi trên dây tới xem - thậm chí họ cũng
không thể nào tin được vào điều đó. Điều đó là khó ngay cả cho họ - khoảng cách
quá lớn và nguy hiểm quá nhiều. Một bước sai, một chút ít nghiêng hơi nhiều
sang trái hay sang phải... và bạn đi đời; một chút ít mất cân bằng và cái chết
đang đợi tại từng bước. Nhưng người đó đã bước qua và người đó bước nhàn nhã
thế, nhàn nhã hệt như người đó đi dạo buổi sáng vậy. Người đó đạt tới ngọn đồi
kia. Người thứ nhất
run rẩy, vã mồ hôi. Ông ta hét lên từ chỗ mình cho người kia, "Nói cho tôi
cách ông bước đi, để cho tôi cũng có thể bước được!" Người kia hét :
"Khó đấy, bởi vì tôi không biết cách. Tôi chỉ biết một điều - đây là cách
tôi đã bước đi trong cả đời mình. Tôi không phải là người đi trên dây, nhưng
bây giờ tôi biết tôi là người đi trên dây, bởi vì đây là cách tôi đã sống cả
đời mình - quân bình, không bao giờ đi sang cực đoan. Hay nếu tôi nghiêng về
bên trái thì ngay lập tức tôi làm cân bằng nó bằng việc nghiêng sang phải. Tôi
không làm bất kì điều gì khác. Nhưng điều này sẽ không ích gì cho ông bởi vì
đây không phải là cái gì đó ông có thể học một cách bất thần. Nếu ông sống theo
cách này thì sự thành thạo về nó sẽ tới với ông." Nhớ lấy từ
"thành thạo." Tôi nhấn mạnh vào nó. Tôn giáo là sự thành thạo, nó
không phải là khoa học. Bằng không thì nó có thể được dạy rất dễ dàng, nó có
thể được giải thích rất dễ dàng. Nó có thể được lí thuyết hoá, sẽ không có rắc
rối gì về nó cả. Ngay cả vấn đề
lớn lao nhất trong khoa học cũng có thể được giải quyết - nếu không phải hôm
nay thì ngày mai, nhưng nó sẽ được giải thích qua trí tuệ, qua nỗ lực trí tuệ.
Và một ngày nào đó, khi nó được giải quyết, thì nó không chỉ được giải quyết
cho người đã giải quyết nó, mà nó được giải quyết cho mọi người. Einstein đã
giải quyết bí ẩn của tương đối. Bây giờ không có nhu cầu cho bất kì ai khác để
giải quyết nó, nó đã được giải quyết cho tất cả mọi người. Bạn chỉ phải hiểu
nó, có vậy thôi. Bạn không cần đi vào trong nỗ lực bao la để giải quyết nó. Nó
đã được giải quyết. Khoa học là một hiện tượng công cộng: một người giải quyết
cái gì đó; thế thì nó được giải quyết cho mọi người; một người phát minh ra cái
gì đó, nó là được phát minh cho tất cả mọi người. Nó là hiện tượng đại chúng. Trong tôn giáo
hàng nghìn Lão Tử có thể đã xuất hiện, nhưng chẳng cái gì được giải quyết cả.
Bạn phải biết đi biết nó theo cách riêng của mình. Nó không phải là khoa học.
Khoa học có thể tạo ra kinh sách, lí thuyết, nhưng tôn giáo không thể tạo ra
kinh sách và lí thuyết được. Nó là kinh nghiệm sống. Bạn không thể thu nó về
một lí thuyết, nó quá tinh tế, quá tinh vi đến mức không thể làm được điều đó.
Lí thuyết là rất thô thiển, sần sùi; kinh nghiệm là rất tinh tế. Liệu bất kì
người đi trên dây nào có thể tạo ra một lí thuyết về việc đi trên dây không và
chỉ bởi việc hiểu lí thuyết đó...? Bạn có thể hiểu lí thuyết một cách hoàn hảo,
bạn có thể được kiểm tra và bạn có thể thu được một trăm phần trăm điểm. Nhưng
bạn có nghĩ rằng bạn sẽ có khả năng bước đi trên dây chỉ bởi vì bạn đã hiểu nền
tảng lí thuyết về nó không? Không, điều đó sẽ chẳng ích gì. Nó không phải là
khoa học. Và tôi nói với bạn, nó thậm chí không phải là nghệ thuật nữa - bởi vì
nghệ thuật có thể được bắt chước; thành thạo thì không bao giờ có thể được bắt
chước. Nghệ thuật là cái gì đó bạn làm bên ngoài mình: bạn vẽ tranh, bạn làm
thơ, bạn nhảy múa, bạn làm điều gì đó là thấy được, có thể được bắt chước. Ngay
cả Picasso cũng có thể được bắt chước. Nhưng tôn giáo
thì không bao giờ có thể được bắt chước; nó không phải là cái gì đó ở bên
ngoài, nó là cái gì đó ở bên trong. Bạn có thể bắt chước một Picasso, một
Michelangelo, nhưng làm sao bạn có thể bắt chước một Lão Tử? Bạn cảm thấy cái
gì đó có đó nhưng nó là khó nắm bắt. Bạn biết rằng ông ấy biết cái gì đó nhưng
bạn không thể chỉ ra nó được, bạn không thể hình dung ra nó được. Nó là sự
thành thạo. Thế thì thành
thạo là gì? Thành thạo tới khi bạn làm nhiều nhiều thứ trên con đường - thử và
sai, ngã rồi dậy, đi lạc rồi quay lại - hàng nghìn thực nghiệm trong việc sống,
và thế rồi bỗng nhiên một ngày nào đó bạn có sự thành thạo về nó. Thành thạo là
tinh hoa của nhiều sai sót, lầm lẫn, của thử và sai. Cái gì đó trưởng thành
trong bạn, và một khi bạn biết nó thì bạn có thể quên về nó đi, bạn bao giờ
cũng có nó. Bạn không cần nhớ nó. Nếu bạn cần nhớ nó, thì nó vẫn chưa là thành
thạo, nó là cái gì đó trong tâm trí. Nếu nó là thành thạo thì nó đi vào trong
máu, trong xương, trong chính cốt tuỷ, trong chính sự hiện hữu. Thế thì bạn có
thể quên nó. Một Lão Tử phải
không nhớ tới cách mình phải bước, cách mình phải hiện hữu. Điều đó không phải
là kỉ luật. Một khi bạn biết, thì bạn biết. Bạn có thể quên, bạn có thể đơn
giản vứt bỏ nó khỏi tâm trí. Nhưng bạn sẽ tuân theo nó, bạn sẽ tuân theo nó mà
không nghĩ về nó. Thành thạo không phải là khoa học cũng chẳng nghệ thuật, nó
là kinh nghiệm đã sống qua. Và đây là nghệ thuật lớn lao nhất hay khoa học lớn
lao nhất - khoa học về cuộc sống hay nghệ thuật về cuộc sống. Bạn phải bước
đi trong cuộc sống - và thấy cách mình ngã; bạn phải quan sát bản thân mình -
và quan sát cách bạn đi lạc lối. Và tâm trí sẽ cứ khăng khăng đi tới chính cực
đoan. Bất kì khi nào bạn cảm thấy mất quân bình, ngay lập tức làm quân bình nó
bằng việc chuyển sang cái đối lập. Tâm trí hoặc tả
khuynh - nó đi sang bên phải, thế thì nó không bao giờ đi sang bên trái; hoặc
tâm trí là hữu khuynh - thế thì nó đi sang bên trái và không bao giờ đi sang
bên phải. Và tôi đã bắt gặp một hiện tượng rất kì lạ: đôi khi tâm trí trở thành
trung dung - vẫn còn ở giữa nhưng cuồng tín về việc ở giữa như những người khác
ở bên phải hay bên trái. Con người này cũng không ở giữa bởi vì người ở giữa
thì không bao giờ cuồng tín; chỉ những kẻ cực đoan mới cuồng tín, họ níu bám
lấy vị trí nào đó. Và chỗ giữa không phải là vị trí, nó là việc thường xuyên
thu được quân bình. Cố hiểu đi. Đây
là cảm giác có nghĩa nhất mà Đạo có thể cho bạn. Chỗ giữa không phải là trạng
thái cố định, nó là chuyển động thường xuyên thay đổi. Cho nên bạn không thể
nào ở chỗ giữa giống như người có thể ở bên trái hay bên phải. Bạn không thể
nào bám vào chỗ giữa được. Người muốn ở chỗ giữa sẽ thường xuyên phải nghiêng
về bên phải và bên trái; đôi khi bạn sẽ thấy người đó là tả khuynh, và đôi khi
bạn sẽ thấy... bây giờ, nhìn! - người đó đã trở thành hữu khuynh. Người đó phải
bước như người đi trên dây. Chỉ giữa hai cực đoan này, giữ quân bình thường
xuyên, liên tục, thì mới là ở giữa. Chỗ giữa là
tình huống sống động, nó không phải là điểm cố định và chết mà bạn đạt tới vĩnh
viễn - không. Khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia bạn phải đạt tới nó, cứ đạt
đi đạt lại mãi. Quan sát người đi trên dây - đấy là một kinh nghiệm. Trong thời thơ
ấu của tôi, bất kì khi nào tôi nghe nói về người đi trên dây - ở bất kì đâu,
trong làng tôi hay làng bên cạnh - tôi đều chạy tới và quan sát, bởi vì từ ngay
ban đầu tôi đã cảm thấy rằng người đó biết cái gì đó rất, rất có ý nghĩa cho
cuộc sống. Người đó đang
làm gì? Người đó không tĩnh tại ở chỗ giữa, bằng không thì người đó sẽ ngã.
Người đó không bao giờ có lấy một khoảnh khắc tĩnh tại. Người đó là động,
thường xuyên thay đổi, một luồng, nhưng luồng này có một trung tâm quân bình.
Đôi khi người đó chuyển sang trái, đôi khi người đó chuyển sang phải; người đó
rất mâu thuẫn, người đó không nhất quán. Nếu bạn yêu cầu nhất quán thì người đó
sẽ ngã và chết. Nếu tôi nói, "Bám dính lấy một tình huống, với một vị trí.
Nếu bạn là người hữu khuynh, cứ hữu khuynh đi; hay nếu bạn là người tả khuynh, cứ
là tả khuynh đi; hay nếu bạn chọn chỗ giữa làm vị trí của mình, thế thì ở giữa.
Nhưng bạn đang làm gì thế? Bạn thường xuyên chuyển động" - bạn sẽ giết
chết người đó. Bất kì vị trí tĩnh tại nào cũng đều giết chết. Tĩnh tại là chết,
và chết một cách vô dụng. Tĩnh tại là bỏ lỡ cuộc sống. Không, người đó không
thể nào vẫn còn ở chỗ giữa được. Để còn ở chỗ giữa... người đó không thể nào
vẫn còn ở chỗ giữa được - để còn ở chỗ giữa người đó phải thường xuyên chuyển
động và giữ quân bình. Mọi khoảnh khắc cuộc sống đều thay đổi. Không cái gì
tĩnh tại cả. Heraclitus nói:
Bạn không thể bước hai lần vào cùng một dòng sông. Vào lúc bạn sắp bước vào
dòng sông lần thứ hai, thì dòng sông đã thay đổi rồi. Và không chỉ dòng sông đã
thay đổi, bạn đã thay đổi. Làm sao bạn có thể bước hai lần vào dòng sông được?
Sông không còn như cũ mà bạn cũng chẳng còn như cũ. Chẳng cái gì còn như cũ cả.
Tính như cũ là ảo tưởng. Luồng chảy là thực tại. Trong một thế giới thay đổi
như vậy, trong một thế giới sống động như vậy, rung động cùng cuộc sống, nếu
bạn níu bám lấy một vị trí thì bạn là chết, bạn đang tìm kiếm tự tử. Đó là lí do tại
sao những người đã đạt tới và kết luận thì đều chết cả. Nếu bạn đã kết luận
rằng bạn là người Hindu thì bạn là chết. Nếu bạn đã kết luận rằng bạn là người Mô
ha mét giáo thì bạn là chết. Bởi vì đôi khi người Hindu cần nghiêng về người Mô
ha mét giáo để thu lấy quân bình, và đôi khi người Mô ha mét giáo cần là người
Hindu để thu lấy quân bình. Quân bình là
cuộc sống. Nếu bạn đã quyết định rằng bạn là người cộng sản thì bạn là chết. Để
còn sống động thì ngay cả người cộng sản cũng cần nghiêng về tư bản và người tư
bản cần nghiêng về người cộng sản. Cuộc sống không được sắc nét như suy nghĩ.
Suy nghĩ là rất tuyến tính, cuộc sống mang tính điên khùng. Tôi đã nghe một
giai thoại, không do người theo Đạo giáo viết ra mà giai thoại này vẫn mang tính
Đạo giáo - dù vô tình hay hữu ý, người này đang mang Đạo vào trong nó. Đó là
giai thoại Đức. Có lần chuyện
xảy ra: một con gà con đậu trong chuồng gà, hoàn toàn giống như phật, không mảy
may lo nghĩ về thế giới. Thế rồi bỗng nhiên một người xuất hiện. Nó trở nên sợ
hãi; nó chạy mất. Khi nó quay lại thì người này đã đi rồi nhưng vẫn còn vài hạt
ngô ở ngay trước chuồng gà. Nó bắt đầu nghiền ngẫm, suy nghĩ. Một sự tò mò khoa
học nảy ra trong đầu nó. Những hạt ngô này từ đâu tới? Thế rồi ngày
hôm sau người đó lại xuất hiện. Nó lại chạy mất, quay lại. Người này đã đi,
nhưng hạt ngô có đó. Chắc chắn có mối quan hệ nào đó giữa người này và hạt ngô.
Nhưng vẫn còn quá sớm cho một nhà tư tưởng khoa học đi tới kết luận. Nó đã
không muốn dính líu vào một lí thuyết sớm thế, trong hấp tấp thế. Cho nên nó
chờ đợi - nó phải đã thực sự là một nhà khoa học. Nó chờ đợi và chờ đợi và chờ
đợi và hàng ngày điều đó đều xảy ra. Thế rồi dần dần
lí thuyết trở nên hiện thực hoá trong tâm trí nhỏ bé của nó rằng có mối quan hệ
nhân quả: bất kì khi nào người này xuất hiện thì hạt ngô đều xuất hiện. Chín
trăm chín mươi chín lần nó đã quan sát. Bây giờ điều đó hoàn toàn chắc chắn -
có mối quan hệ nhân quả. Khi người này xuất hiện, thì hạt ngô xuất hiện. Người
này là nguyên nhân, hạt ngô là hậu quả. Chín trăm chín
mươi chín lần là đủ. Nó kết luận bây giờ rằng có mối quan hệ tất yếu. Và nó đã
chờ đợi và thực nghiệm, theo dõi và quan sát đủ - bây giờ nó có thể nói rằng
không có ngoại lệ nào điều đó xảy ra. Cho nên điều đó phải là một qui luật. Nó
rất hạnh phúc và chờ đợi người này. Người đó xuất hiện lần thứ một nghìn. Con gà đi tới
người này để cám ơn lòng tốt của người đó - và cái đầu của nó bị vặn cổ. Cuộc sống là
giống như thế. Nó không có mối quan hệ nhân quả. Cho dù điều gì đó xuất hiện chín
trăm chín mươi chín lần thì cũng chớ có kết luận; lần thứ một nghìn có thể là
ngoại lệ. Và điều này
không chỉ là một câu chuyện. Bây giờ trong giới khoa học triết lí về bất định
đang nảy sinh và thu được ảnh hưởng. Sau Heisenberg, khoa học không còn chắc
chắn như nó đã quen thế trước đây. Bây giờ họ nói mọi thứ đều bất định, và tính
chắc chắn chỉ là chắc chắn xấp xỉ - không chắc chắn tuyệt đối. Chín trăm chín
mươi chín lần, được - nhưng thế rồi ngoại lệ tới. Ngay cả khoa học cũng bị rung
chuyển. Nó phải bị rung chuyển bởi vì nó cũng giải quyết với cuộc sống. Cuộc
sống không thể nào bị thu gọn về mối quan hệ nhân quả. Cuộc sống vẫn còn là bí
ẩn. Để còn ở chỗ
giữa, nếu bạn dính lấy chỗ giữa thì bạn sẽ lỡ. Đây là bí ẩn của cuộc sống. Để
còn ở chỗ giữa bạn phải thường xuyên chuyển động sang trái và phải. Chỉ thế thì
bạn mới có thể còn lại được, bởi vì chỗ giữa không phải là điểm cố định. Chỗ
giữa trong thực tế không phải là cái gì nằm ngoài bạn. Chỗ giữa là cái gì đó
bên trong bạn: quân bình, âm nhạc, hài hoà. Lão Tử nói: Nhận
biết về các cực đoan. Đừng đi tới cực đoan, bằng không bạn sẽ thất bại. Mọi thứ
ở cực đoan đều đổi sang cái đối lập của nó. Nếu bạn trong
tình yêu và hai mươi bốn giờ một ngày bạn cứ theo người yêu, và bạn đi tới cực
điểm, như mọi người yêu vẫn làm, thì mọi thứ sẽ bị phá huỷ. Bạn sẽ tự mình phá
huỷ tình yêu, bởi vì nó quá nhiều. Nó trở thành không thể chịu nổi. Bạn không thể
yêu hai mươi bốn giờ một ngày được. Việc yêu hai mươi bốn giờ một ngày cũng
giống như một người ăn hai mươi bốn giờ một ngày. Tình yêu là thức ăn. Bạn
không nên đi tới cùng cực, bằng không thức ăn có thể trở thành chất độc. Đó là
cách mọi sự biến thành cái đối lập của nó. Thức ăn nuôi dưỡng, nhưng ăn quá
nhiều và thức ăn trở thành chất độc, nó giết chết. Cái là chất nuôi dưỡng trở
thành chất độc và kẻ giết hại. Tình yêu là chất nuôi dưỡng; bạn làm nó quá
nhiều, làm nó quá mức, và nó giết hại. Và chỉ hận thù còn lại. Làm bất kì cái
gì quá nhiều và bạn sẽ thấy cái đối lập của nó đã xảy ra. Theo đuổi tiền
bạc quá nhiều và đến cuối cùng bạn sẽ thấy bạn là kẻ ăn mày, trống rỗng. Bạn đã
bỏ lỡ toàn thể cuộc sống và chính vấn đề của nó. Bạn bỏ lỡ tất cả mọi sự giầu
có mà cuộc sống có thể đã trao cho bạn bởi vì bạn theo đuổi giầu sang quá
nhiều. Theo đuổi hạnh phúc và đi tới cùng cực và bạn sẽ là người bất hạnh nhất
trên thế giới. Để hạnh phúc người ta không cần theo đuổi hạnh phúc quá nhiều.
Đôi khi người ta phải quên nó đi; đôi khi người ta phải thậm chí tận hưởng cái
bất hạnh. Để hạnh phúc, tôi đang nói đôi khi người ta phải tận hưởng cả bất
hạnh nữa. Điều đó nữa cũng là một phần của cuộc sống - và đẹp. Đây là cách quân
bình được duy trì. Nếu bạn cười hai mươi bốn giờ một ngày, tiếng cười của bạn
sẽ trở thành loạn thần kinh. Nó sẽ không còn là tiếng cười nữa - bạn sẽ phát
điên. Để giữ cho tiếng cười sống động và lành mạnh, nước mắt cũng được cần tới.
Bạn không thể cười hai mươi bốn giờ một ngày được. Quan sát trẻ
con, bởi vì chúng là con người thuần khiết và chúng phản ánh mọi thứ tuyệt đối
rõ ràng; chúng là tựa tấm gương. Trong các làng, nếu đứa trẻ cười quá nhiều thì
người mẹ nói, "Đừng cười nhiều quá, bằng không con sẽ khóc đấy." Có
trí huệ nào đó trong nó. Nếu đứa trẻ cười quá nhiều thì nó nhất định khóc. Bạn
có thể thấy - nó cười, nó cười, nó cười... và bỗng nhiên nó bắt đầu khóc. Tiếng
cười tới cực điểm và trở thành việc khóc. Bạn không thể
hạnh phúc được hai mươi bốn giờ một ngày; bất hạnh là việc thảnh thơi. Bạn
không thể bất hạnh trong hai mươi bốn giờ được; hạnh phúc là việc thảnh thơi.
Đấy là việc đi trên dây - và con người ngu xuẩn bởi vì con người quá logic. Bạn sống trong
thế giới như một grihastha, như một chủ hộ. Thế thì trong hai mươi bốn
giờ một ngày bạn sống trong thế giới; thậm chí không tới một giờ trong hai mươi
bốn giờ bạn thoát ra khỏi nó - trong thiền, trong cầu nguyện, trong cô lập, một
mình, tận hưởng chỉ bản thân mình, không bận tâm tới thế giới và những điều
trần gian - không. Thế rồi một hôm bạn phát chán với nó. Điều này nhất định là
như vậy, nó sắp xảy ra: nếu bạn vẫn còn là chủ hộ hai mươi bốn giờ một ngày, một
hôm nào đó bạn sẽ phát ngán, bạn đã tới cực điểm. Thế thì bạn từ bỏ và chạy
trốn lên Himalayas. Tôi đã quan
sát: những người chạy lên Himalayas đều là những chủ hộ hoàn hảo. Hoàn hảo, tôi
nói vậy. Họ đã làm quá nhiều, họ đã làm điều đó quá mức. Và khi bạn làm quá
mức, cực đoan kia nhất định được sinh ra. Nó lấy việc báo thù. Một người quá
nhiều trong thế giới, chỉ tích luỹ của cải, tiền bạc, số dư ngân hàng, bỗng
nhiên cảm thấy thất vọng. Người đó cười quá nhiều, bây giờ nước mắt tuôn ra.
Người đó trốn đi. Người đó từ bỏ, người đó trở thành một sannyasin, đi
lên Himalayas, vào hang động. Điều gì đã xảy ra cho con người này? - bạn nghĩ
là cách mạng sao? Chẳng có gì giống thế cả. Đấy chỉ là hiện tượng tự nhiên -
người đó ở quá nhiều trong thế giới, bây giờ người đó phải trở thành chính cái
đối lập. Và bây giờ hai mươi bốn giờ một ngày người đó sẽ cố gắng là một sannyasin
- bây giờ lần nữa cùng cái ngu xuẩn ấy. Một ngày nào đó người ấy nhất định lại
đi tới bãi chợ. Hai mươi bốn giờ một ngày người đó đã cố gắng là một chủ hộ -
người đó có thể đã không hiện hữu; bây giờ người đó đang làm cùng cái điều ngu
xuẩn đó lần nữa, trong hai mươi bốn giờ một ngày người đó đang cố gắng là một sannyasin. Cuộc sống là nhịp
điệu. Bạn hít vào, bạn thở ra. Bạn không thể cứ hít vào mãi được, hít vào, hít
vào - bạn sẽ chết. Bạn phải hít vào và thở ra, và bạn phải giữ quân bình. Cùng
khối lượng hít vào phải đi ra - thế thì bạn mạnh khoẻ. Cuộc sống của thế giới
là hít vào còn cuộc sống của một sannyasin là thở ra. Chúng cả hai phải
cùng nhau. Mọi người tới
tôi và họ hỏi, "Thầy đang tạo ra kiểu sannyasins gì? Chúng tôi chưa
bao giờ nghe nói về điều này. Đây là kiểu tính chất sannyas gì? Mọi
người đang sống trong nhà họ, họ đang làm việc kinh doanh của mình, họ đi tới
văn phòng, làm việc trong xưởng máy, họ có vợ và con. Đây là kiểu tính chất sannyas
gì? Chúng tôi chưa bao giờ nghe nói về điều đó cả." Vâng bạn chưa bao giờ
nghe nói về nó cả. Nhưng đây mới là tính chất sannyas duy nhất mà đúng,
đây là tính chất sannyas mà quân bình. Đây là tính chất sannyas
duy nhất có sự hài hoà của việc hít vào và thở ra. Và khả năng lớn
nhất của việc đạt tới đỉnh của phúc lạc là có thể chỉ khi hít vào và thở ra là
hoàn toàn quân bình. Bạn không nghiêng sang bất kì bên nào quá nhiều - bỗng nhiên
bạn vượt ra ngoài cả hai. Lão
Tử nói: Giương cung hết mức Sẽ ước dừng đúng lúc. Bởi
vì cung sẽ gẫy. Dương cung hết mức - nó có thể đã phục vụ bạn lâu nếu bạn có
chút ít tỉnh táo. Đừng bao giờ dương cung hết mức bởi vì hết mức bao giờ cũng
là chết. Cuộc sống không muốn bất kì cái gì hoàn hảo bởi vì với hoàn hảo thì
tiến hoá dừng lại. Hoàn hảo là chết;
bất toàn là sống. Cuộc sống yêu cái bất toàn. Trở thành hoàn hảo và bạn vô dụng
- cuộc sống sẽ ném bạn vào trong đống rác, bạn không còn được cần tới nữa. Vẫn
còn bất toàn đi, và bạn sẽ sống động và cuộc sống sẽ hỗ trợ cho bạn từ mọi nơi.
Đó là lí do tại sao hoàn hảo không phải là mục tiêu cho Lão Tử hay cho tôi - mà
là tính toàn bộ. Bạn có thể toàn
bộ mà không hoàn hảo và bạn có thể hoàn hảo mà không toàn bộ. Trong thực tế,
bạn chỉ có thể hoàn hảo nếu bạn không toàn bộ, bởi vì hoàn hảo sẽ chọn hoặc bên
phải hoặc bên trái; thế thì bạn trở thành một người cực hữu hoàn hảo hay bạn
trở thành người cực tả hoàn hảo - hay bạn trở thành người trung dung hoàn hảo. Nhưng
hoàn hảo có nghĩa là bạn bị cố định; hoàn hảo nghĩa là bây giờ bạn bị đông
cứng, không tuôn chảy. Và hoàn hảo bao giờ cũng bộ phận. Điều lớn lao
nhất của con người là chưa bao giờ hoàn hảo cả, họ là toàn bộ. Toàn bộ có nghĩa
là họ có mọi thứ trong mình, nhưng họ không chỉ là tổng số của mọi thứ. Họ còn
nhiều hơn là tổng số. Họ có mọi thứ trong mình, và thế thì hài hoà nảy sinh,
cái ở ngoài, ngoài mọi thứ mà họ có. Chúng không chỉ là tổng về số học, chúng
là tổng số về nghệ thuật. Bài thơ còn nhiều hơn tất cả các từ trong nó - nó
phải là như vậy, bằng không thì nó sẽ đơn giản là các từ. Bức tranh còn nhiều
hơn tất cả mọi mầu sắc trong nó - nó phải như vậy, bằng không thì nó là kiểu
tranh gì vậy? Có lần chuyện
xảy ra: một người Mĩ muốn có một bức tranh do Picasso vẽ. Ông ta biết rằng
Picasso sẽ đòi giá cao lắm nhưng ông ta có thể trả được, ông ta có đủ. Cho nên
họ không định giá trước. Ông ta yêu cầu và Picasso vẽ tranh. Thậm chí người Mĩ
này cũng không thể tin nổi rằng với bức tranh nhỏ thế, chỉ một mảnh vải vẽ nhỏ
với vài mầu sắc trên đó - mà mười nghìn đô la sao? Người Mĩ nói,
"Dường như chút ít quá nhiều, ngay cả đối với tôi. Cái gì có đó trong nó
mà đáng giá đến mười nghìn đô la?" Picasso nói,
"Ông thấy cái gì?" Ông ta nói, "Tôi thấy một mảnh vải vẽ và vài
mầu sắc." Picasso nói,
"Được đấy. Ông trả mười nghìn đô la hay bất kì cái gì ông muốn." Ông ta nói,
"Tôi sẽ trả ông năm nghìn đô la." Khi ông ta đem
năm nghìn đô la tới, Picasso đưa cho ông ấy không phải là bức tranh này mà là
một mảnh vải vẽ và vài ống thuốc mầu vẽ. Và ông ấy nói, "Ông lấy nó đi.
Đây là tất cả những gì ông muốn." Bức tranh còn
nhiều hơn một mảnh vải vẽ, nhiều hơn vài mầu vẽ - bởi vì nó là sự hài hoà. Và
khi Picasso vẽ cái gì đó thì đấy là sự hài hoà lớn. Giá tranh không phải là cho
mầu sắc và vải vẽ, giá này là cho sự hài hoà mà ông ấy đã đem tới cho vải vẽ và
mầu vẽ - cái gì đó siêu việt lên. Khi một người
là toàn bộ thì người đó có tất cả - trái, phải, giữa - và tất cả các vị trí
khác ở giữa. Người đó có tất cả, toàn bộ miền. Người đó là cầu vồng. Toàn bộ
miền mầu sắc đều trong người đó, nhưng người đó còn nhiều hơn miền đó - người
đó là sự hài hoà của chúng. Sự hài hoà đó là hiện tượng thay đổi thường xuyên;
bạn phải đạt tới nó lặp đi lặp mãi. Và đó là cái đẹp của của nó bởi vì nó
không bao giờ cũ, không bao giờ chán, không bao giờ tẻ nhạt, không bao giờ nhàm
chán. Mỗi khoảnh khắc nó nảy sinh ra từ cái không; mỗi khoảnh khắc nó đều tươi
tắn như hạt sương sớm. Nó tươi tắn mãi. Một Lão Tử sống
trong cái tươi tắn mãi, cái xanh tươi mãi. Nếu ông ấy đã đạt tới cái gì đó, thì
đạt tới nó mãi mãi, được bảo đảm - thế thì nó sẽ trở thành tẻ nhạt. Thế thì bụi
bặm sẽ tích tụ lên nó, thế thì quá khứ sẽ tích tụ lên nó và chẳng chóng thì
chầy người ta sẽ cảm thấy chán với nó và người ta sẽ muốn vứt nó đi. Ngay cả
chứng ngộ, nếu bạn không thu được nó lặp đi lặp lại, thì sẽ trở thành hiện
tượng chán ngán - hệt như vật. Bạn sẽ cảm thấy ngán ngẩm với nó. Dương cung hết mức Sẽ ước dừng đúng lúc. Đừng
dương cung hết mức. Nếu bạn cười, mỉm cười tốt hơn là cười thành tiếng bởi vì
mỉm cười chưa bao giờ đem tới nước mắt, chỉ cái cười khanh khách mới đem lại.
Hay nếu bạn cười, thì giữ quân bình. Đừng đi tới chính chỗ cực đoan. Vẫn còn
trên đất bằng, bằng không chẳng chóng thì chầy bạn sẽ bị ném sang cực đoan kia
và thế thì bạn sẽ khổ. Khi bạn hạnh phúc, giữ kiểm soát; đừng quá hạnh phúc.
Không cần đâu. Mỉm cười trong hạnh phúc, đừng cười to; giữ im lặng về nó, thế
thì hạnh phúc có thể ở lại một thời gian lâu. Nếu bạn biết thành thạo về nó,
thì nó có thể ở lại mãi mãi. Mỉm cười có thể
ở lại mãi mãi - không phải là cười thành tiếng. Cho nên bạn có thể thấy vị phật
mỉm cười nhưng không cười to. Ông ấy biết nghệ thuật về cách giữ quân bình. Yêu,
được nó nuôi dưỡng, cảm thấy cực lạc, nhưng đừng phát điên. Bằng không chẳng
chóng thì chầy mọi thứ sẽ biến thành hận thù. Người yêu có thể trở thành kẻ thù
rất dễ dàng; trong thực tế, làm sao bạn có thể tạo ra kẻ thù nếu ban đầu bạn
không làm người đó thành người bạn? Và tình bạn càng sâu sắc thì thù hận sẽ
càng sâu sắc nếu nó tới. Bạn không thể tạo ra kẻ thù mà không tạo ra tình bạn
trước hết. Tình bạn dường như là yêu cầu đầu tiên. Nếu bạn đi vào
quá nhiều, nếu bạn tới quá gần, thì bạn sẽ tạo ra kẻ thù. Đừng bao giờ đi vào
quá gần. Bao giờ cũng giữ một chút ít khoảng cách. Kahlil Gibran trong cuốn
sách tuyệt vời của mình The Prophet nói người yêu nên giống như các cây
cột trụ của ngôi đền - đỡ cho cùng mái, nhưng không quá gần nhau. Giống như các
cột trụ... Nếu họ quá gần, thì cả ngôi đền sẽ sụp; nếu họ đi quá xa, thế nữa cả
ngôi đền cũng sẽ sụp đổ. Họ không thể tới quá gần; họ không thể đi quá xa. Họ
nên giống như những cột trụ của ngôi đền, đỡ cho cùng mái. Đây là nghệ
thuật, sự thành thạo. Nếu bạn muốn tình yêu của mình là vĩnh viễn, thì đừng tới
quá gần, bởi vì nếu bạn tới quá gần thế thì nhu cầu đi xa nảy sinh. Nếu bạn đến
quá gần thế thì bạn xâm lấn vào tự do của từng người khác - và mọi người đều
cần một không gian của riêng mình. Tình yêu là đẹp khi nó cùng tồn tại với
không gian của bạn; nếu nó bắt đầu xâm lấn vào không gian của bạn thế thì nó
trở thành chất độc. Và những người yêu bao giờ cũng hành xử ngu si và xuẩn
ngốc. Khi họ trong tình yêu, họ không lắng nghe cái gì cả; họ cố gắng tới quá
gần và thế thì họ phá huỷ tình yêu của mình. Giá như họ có chút ít khôn ngoan
hơn thì họ đã không đến quá gần và thế thì họ sẽ vẫn còn gần nhau mãi mãi. Bernard Shaw đã
nói ở đâu đó rằng vào lúc con người trở nên khôn ngoan hơn trong tình yêu, thì
cuộc sống của người đó đã trôi qua rồi. Người rất già trở nên trí huệ trong
tình yêu, nhưng thế thì khả năng của tình yêu đã qua rồi. Bernard Shaw nói: Tôi
bao giờ cũng tự hỏi tại sao Thượng đế làm phí hoài tuổi trẻ với thanh niên.
Tuổi trẻ nên được trao cho người già, người trí huệ hơn, người đã sống, đã biết
và đã đạt tới quân bình - nhưng Thượng đế làm phí hoài tuổi trẻ lên thanh niên. Trong mọi thứ
điều này nên là qui tắc vàng: bao giờ cũng giữ quân bình. Người mất quân bình
không thể tồn tại được trong cuộc sống; cuộc sống không cho phép mất quân bình.
Bạn càng quân bình, cuộc sống càng trao nhiều hơn cho bạn; bạn càng ít quân
bình - bạn trở thành kẻ ăn mày theo cách riêng của mình. Cuộc sống không thể
cho bạn được. Dương cung hết mức Sẽ ước dừng đúng lúc. Mới
vài ngày trước đây tôi mới đọc một nhà thơ Đức. Trong phần giới thiệu của mình
ông ta viết: Giá mà Hitler được biết tới câu này của Lão Tử... Dương cung hết mức Sẽ ước dừng đúng lúc. Hitler
đã thành công nhưng ông ta lại không biết Lão Tử. Những người như Hitler chẳng
bao giờ làm thế. Dương cung... Bây
giờ Indira đã giương cung quá mức. Đừng thành công quá nhiều, bằng không bạn sẽ
thất bại. Bạn đã nghe câu tục ngữ, rằng chẳng cái gì thất bại như thất bại;
điều đó là không đúng. Tôi sẽ bảo bạn câu tục ngữ đúng: Chẳng cái gì thất bại
như thành công. Nếu bạn cứ
thành công thì bạn nhất định thất bại. Có giới hạn cho mọi thứ. Nếu bạn cứ
thành công, thì một khoảnh khắc chợt tới tới - bốp - và mọi thứ vượt ra ngoài
sự kiểm soát của bạn. Lấy mọi thứ có chừng mực thôi. Nếu bạn thành công thì
đừng vội vàng và đừng đi tới chính tận cùng, bởi vì sau thành công thì chẳng
cái gì còn lại, chỉ thất bại. Bao giờ cũng
lấy mọi thứ theo liều vi lượng liệu pháp. Đối chứng liệu pháp là tốt, nhưng
liều lượng đối chứng liệu pháp lại không tốt. Và tỉnh táo: bạn có đang đi tới
chính giới hạn của sự vật không? Nếu bạn đi tới chính giới hạn thì thực tế bạn
đang đi tới cái đối lập đấy. Dương cung hết mức Sẽ ước dừng đúng lúc... ...
bởi vì bạn sẽ làm gẫy nó. Mài kiếm sắc bén, Không bén được lâu. Chỉ
quân bình là kéo dài, không cái gì khác, và quân bình là điều khó khăn nhất
trong sự tồn tại, trong cuộc sống, bởi vì quân bình cần trí huệ vô cùng. Chuyện xảy ra:
đệ tử của Lão Tử, Trang Tử, sống trong thành nhiều năm. Thế rồi một hôm bỗng
nhiên ông ấy bảo với các đệ tử, "Chúng ta cần ra đi." Họ nói,
"Nhưng điều gì đã xảy ra mà thầy lại bỏ đi? Chúng tôi không thấy vấn đề gì
cả. Sao chúng ta phải đi sang thành khác? Mọi thứ đều tốt, mọi thứ đều ổn định,
thuận tiện. Trong thực tế, bây giờ chúng ta có khả năng làm mọi thứ thoải mái
và thầy lại di chuyển mãi. Có chuyện gì vậy?" Trang Tử nói,
"Bây giờ mọi người đã bắt đầu biết tới ta, tên ta đang lan rộng. Và khi có
danh tiếng thì người ta phải tỉnh táo, bởi vì chẳng mấy chốc cũng những người
này sẽ nói xấu ta. Trước khi họ bắt đầu nói xấu ta, ta nên rời bỏ thành
này." Một khoảnh khắc
tới khi danh vọng trở thành nói xấu, khi thành công trở thành thất bại. Bạn bao
giờ cũng nhớ vẫn còn ở giữa. Tỉnh táo thường xuyên là cần thiết, bằng không thì
xu hướng của tâm trí là nghĩ rằng khi bạn thành công sao không thành công thêm
một chút nữa? Tâm trí nói: Khi mình đang thành công sao không cố thêm một chút
nữa? Và bạn thấy rằng con đường là quang đãng và không ai chắn lối cả - sao
không thử thêm chút nữa? Tâm trí tiếp tục; tâm trí mang tính ám ảnh. Bất kì cái
gì nó kiếm được, nó đều trở nên bị ám ảnh bởi cái đó. Nếu nó điên thành công,
cuồng thành công, thế thì nó cứ theo đuổi thành công một cách ám ảnh - cho tới
khi nó thất bại. Chừng nào nó chưa thất bại thì nó sẽ không nghỉ. Nó cứ tiếp
tục và tiếp tục và tiếp tục mãi. Cố hiểu bản
chất của tâm trí: nó mang tính ám ảnh. Nếu bạn làm điều gì đó thì tâm trí cứ
làm điều đó cả hai mươi bốn giờ một ngày, nó sẽ không cho bạn nghỉ ngơi. Nó
giống như quỉ - nó sẽ không cho phép bạn nghỉ. Còn việc nghỉ ngơi cần thiết. Làm, nhưng đừng
làm quá nhiều, bằng không thì cùng năng lượng ấy sẽ trở thành việc hoàn tác. Mài kiếm sắc bén, Không bén được lâu.
Vàng ngọc đầy nhà, Khó mà giữ lâu. Khi
mọi thứ quá nhiều, nhất định nó bị lấy đi. Có lần chuyện
xảy ra: một tín đồ của Lão Tử được làm quan toà. Vụ kiện thứ nhất được đưa tới
người đó trong công đường là về một tên trộm. Tên trộm này đã thú nhận rằng
mình đã ăn trộm. Vụ kiện là rõ ràng - tên trộm đã thú nhận, mọi thứ đã được tìm
thấy - nhưng tín đồ này của Lão Tử lấy một cách tiếp cận và thái độ rất rất kì
lạ với vụ kiện này. Ông ta giam tên trộm trong sáu tháng và ông ta cũng giam
người bị trộm các thứ. Tất nhiên người
nhà giầu này không thể nào tin được vào điều đó. Vô nghĩa làm sao! Đồ đạc của
người đó bị đánh cắp và người đó bị xử tội - để làm gì? Đệ tử này của
Lão Tử nói, "Bởi vì ông đã tích trữ quá nhiều. Bây giờ nếu ta đi tới tận
gốc rễ của vấn đề thì ông đã khêu gợi con người này để ăn trộm. Trong cả làng
mọi người đều nghèo, gần chết đói, còn ông thì tích luỹ của cải. Có giới hạn
cho mọi thứ. Cho nên nếu ta xét: ai là kẻ tội phạm thực sự? - thế thì ông mới
là tội phạm thực. Ông đã bắt đầu toàn bộ vấn đề trước nhất. Tên trộm này chỉ là
một nạn nhân. Ta biết rằng anh ta không thể kiểm soát được bản thân mình, đó là
lỗi của anh ta. Nhưng ông đã tích trữ quá nhiều, và khi của cải tích trữ quá
nhiều vào một người thì xã hội không thể vẫn còn đạo đức được nữa, không thể
vẫn còn đạo đức được. Trộm cắp sẽ nổi lên, cướp bóc sẽ xảy ra, giết người sẽ
xảy ra. Đủ mọi loại vô đạo đức sẽ xảy ra - chúng nhất định xảy ra." Chẳng ai chịu
nghe cả. Viên quan toà này bị gạt khỏi chức vụ. Hoàng đế nói, "Thế này thì
quá lắm. Con người này là nguy hiểm. Một ngày nào đó nó sẽ bắt cả ta nữa - bởi
vì nếu nó đi thậm chí tới gốc rễ sâu hơn, thì nó sẽ tìm thấy ta. Con
người này phải bị phế bỏ." Nhưng người ta
phải nghe Lão Tử. Ông ấy chạm tới chính khu trung tâm của toàn bộ bệnh tật này:
nếu bạn tích luỹ quá nhiều thì sẽ bị mất trộm, sẽ không an toàn. Vẫn còn trong
giới hạn, vẫn còn được quân bình. Quá nhiều nghèo khó là xấu, quá nhiều giầu có
là xấu - quá nhiều là xấu. Trong thực tế với Lão Tử quá nhiều là tội lỗi
duy nhất. Đừng làm quá nhiều, đừng làm quá mức, và thế thì cuộc sống là sự tuôn
chảy. Và cuộc sống là đạo đức. Giàu sang mà kiêu, Tự vời hoạ ưu. Điều
đó xảy ra mọi ngày nhưng bạn mù quáng cho nên bạn không thể thấy được. Điều đó
xảy ra mọi ngày, mọi nơi. Mọi ngày bạn đều thấy các chính khách trong nước này
- trong mọi nước - họ quá bản ngã, quá tràn đầy với bản ngã riêng của mình. Thế
thì phản ứng bắt đầu. Thế thì ai đó ném giầy và ai đó ném đá và thế thì mọi
người bắt đầu không tôn trọng họ. Quân bình phải
được tạo ra. Nếu bạn cảm thấy rằng bản ngã của mình là tối thượng, thế thì ai
đó nhất định tới từ đâu đó để kéo bạn xuống với kích cỡ đúng của bạn. Ai đó
khác là cần thiết - bởi vì bạn không thể vẫn còn tự mình kiểm soát được. Và
cuộc sống bao giờ cũng tạo ra quân bình, bởi vì mất quân bình là trạng thái ốm
yếu của vấn đề. Nếu trong một nước mà các chính khách quá bản ngã và họ đòi hỏi
quá nhiều kính trọng, thì chẳng mấy chốc bất kính sẽ bước vào. Chẳng mấy chốc
sẽ có nổi loạn, chẳng mấy chốc sẽ có cách mạng, chẳng mấy chốc mọi thứ sẽ bị
phá huỷ. Mọi bộ luật đạo đức, sự kính trọng, cách xử sự sẽ bị phá huỷ. Các chính khách
không nên đòi hỏi quá nhiều kính trọng; họ nên đi tới một chút ít thấp hơn, bên
trong các giới hạn. Thế thì không ai, không ai bận tâm tới việc ném đá vào họ.
Tại sao? Không có vấn đề gì. Trong thời xưa nhà giầu không bao giờ khoe khoang
của cải, họ sống như người thường, như mọi người khác. Ngay cả đến vua chúa
cũng quen tới những kẻ ăn mày như Phật và Mahavira để bày tỏ lòng kính trọng
của mình. Họ bao giờ cũng được tôn kính. Bây giờ quân bình đã hoàn toàn mất.
Không chính khách nào bận tâm tới việc bày tỏ sự kính trọng với bất kì ai.
Người đó trở thành tối cao khi người đó trong quyền lực. Người đó xâm lấn giới
hạn, thế thì chân người đó phải bị kéo xuống. Thế thì ai đó, ở đâu đó khác, phát
sinh. Điều đó đơn giản là quân bình. Bao giờ cũng nhớ:
cuộc sống không bao giờ bất công đâu. Nếu nó có vẻ bất công, thế thì bạn phải
đã làm điều gì đó sai. Đâu đó bạn phải đã vượt ra ngoài quân bình; thế thì cuộc
sống dường như bất công. Bằng không thì cuộc sống chưa bao giờ là bất công. Và
bất kì khi nào bạn cảm thấy bất công thì tốt hơn cả là nhìn vào chính mình; bạn
đã làm điều gì đó sai và bạn đã bị phạt. Trong thực tế, mọi người cứ nghĩ từ
hàng nghìn năm rằng tội lỗi bị trừng phạt, nhưng tôi nói với bạn rằng tội lỗi
không bị trừng phạt. Tội lỗi là trừng phạt rồi. Khi bạn nói tội lỗi bị trừng
phạt thì bạn có thời gian chờ đợi. Có thể chúng sẽ bị trừng phạt vào kiếp sau -
ai bận tâm? Chúng ta sẽ thấy trong kiếp sau. Bạn có thể trì hoãn. Nhưng tôi nói
với bạn rằng tội lỗi là trừng phạt; chúng không bị trừng phạt ở đâu đó trong
tương lai. Tội lỗi mang
trừng phạt trong bản thân chúng. Trừng phạt là bản năng của mọi tội lỗi. Nó
không phải là kết quả đâu đó trong tương lai. Không phải là bạn gieo hạt hôm
nay và bạn thu hoạch ngày mai - không. Không có lỗ hổng thời gian đâu. Bạn phạm
tội và lập tức trừng phạt đã bắt đầu. Tại đây bạn phạm tội và ngay lập tức tại
đây trừng phạt bắt đầu - bạn cảm thấy xấu xí và bạn cảm thấy buồn và bạn cảm
thấy mặc cảm, và rối loạn cùng chao đảo nảy sinh bên trong và bạn bất hạnh và
trong địa ngục. Địa ngục không ở đâu đó trong tương lai, mà thiên đường cũng
vậy. Mỗi hành động đều mang thiên đường hay địa ngục của riêng nó. Vẫn còn quân
bình và bạn đang trong thiên đường; trở thành mất quân bình và địa ngục được
tạo ra - không ai khác tạo ra điều đó cho bạn. Lão Tử không có
Thượng đế, không có Thượng đế nhân cách hoá, để mà trừng phạt bất kì ai. Nó đơn
giản là Đạo. Đạo chỉ là luật, luật phổ quát. Nếu bạn di chuyển tương ứng theo
nó thì bạn hạnh phúc, nếu bạn di chuyển ngược lại nó thì bạn trở nên bất hạnh.
Trong thực tế, bất hạnh là triệu chứng, cũng hệt như hạnh phúc là triệu chứng -
triệu chứng của cách bạn di chuyển: theo Đạo hay chống Đạo. Khi bạn di
chuyển theo Đạo thì bạn hạnh phúc, phúc lạc, lễ hội. Mọi khoảnh khắc đều là
niềm vui, sung sướng. Cuộc sống dường như là bài thơ. Mọi khoảnh khắc bạn đều
thấy cái gì đó nở hoa, lớn lên; mọi khoảnh khắc bạn đều thấy cả nghìn thứ để mà
biết ơn. Bạn được ân huệ. Cuộc sống là
phúc lành nếu bạn đi, di chuyển tương ứng theo luật. Và luật là mang tính quân
bình. Nếu bạn đi ngược lại nó, nếu bạn đi trái luật, thì bỗng nhiên bạn làm mất
quân bình. Hạnh phúc biến mất; bạn trở nên bất hạnh, bạn trở nên buồn bã, khổ.
Địa ngục được tạo ra. Địa ngục chỉ là triệu chứng. Đừng cố gắng đánh nhau với
nó. Chỉ cố hiểu chỗ bạn đã di chuyển ngược luật, có vậy thôi - và thế rồi đi lại,
lấy quân bình. Bất kì khi nào bạn buồn rầu thì đừng cố gắng thay đổi cái buồn
đó. Đừng cố gắng làm bất kì cái gì với nó; cái buồn chỉ mang tính triệu chứng.
Nó đơn giản chỉ ra rằng ở đâu đó bạn đã đi ngược lại luật. Tìm lại quân bình
lần nữa. Có thể bạn cần việc đổi hướng. Có thể bạn cần nghiêng thêm chút ít
sang bên trái hay bên phải để cho quân bình được thu lại. Và điều này phải được
làm liên tục. Mọi người tới
tôi và họ nói, "Nếu chúng tôi thiền và nếu chúng tôi thành công thì liệu
im lặng và an bình có còn mãi mãi không?" Họ đang hỏi một câu hỏi ngu
xuẩn. Thế thì thiền sẽ là một thứ chết - giống như tảng đá, không như đoá hoa.
Nó là hoa sen thực. Nó nở hoa. Nó thay đổi. Với mặt trời nó mở ra, trong đêm nó
cụm lại. Có quân bình liên tục, và bạn phải tìm ra quân bình này vào mọi khoảnh
khắc. Thiền không phải là cái gì đó bạn làm một lần và bạn được làm xong với
nó. Nó là cái gì đó giống như việc thở vậy, giống như máu tuần hoàn. Không phải
là một khi máu đã tuần hoàn thì nó kết thúc, một khi bạn thở thì không còn cần
nó nữa. Không, bạn phải thở và bạn phải cứ thiền; mọi khoảnh khắc bạn sẽ cần
tới nó. Dần dần nó sẽ
trở thành tự nhiên, đó mới là phải. Dần dần bạn sẽ đi ngày càng ít ngược lại
luật hơn. Khi sự thành thạo được tìm thấy, thì chính khoảnh khắc mà bước đi của
bạn sắp sửa ngược lại luật, bạn sẽ thấy địa ngục và bạn sẽ quay lui. Bạn sẽ
trở con đường, bạn sẽ không đi lạc lối. Giàu sang mà kiêu, Tự vời hoạ ưu. Nên việc, lui thân, Đó là đạo trời. Nên việc, lui thân, Khi
bạn thấy rằng một việc đã cho bạn quân bình, rằng bạn đã đạt tới hạnh phúc, đừng
đòi hỏi thêm nữa; khi bạn cảm thấy tốt, đừng yêu cầu thêm nữa; khi bạn được bao
quanh bởi tình trạng hạnh phúc, đừng đòi hỏi thêm nữa. Lui lại, tận hưởng nó. Say
sưa trong nó. Nhảy múa với nó. Đừng yêu cầu thêm. Tâm trí bao giờ cũng đòi hỏi
thêm. Tâm trí nói,
"Được rồi, điều này là tốt, rằng mình đang cảm thấy hạnh phúc nào đó,
nhưng thêm nữa là có thể được. Cho nên trước hết mình phải đạt thêm nữa."
Thế thì bạn bỏ lỡ cái có thể được; cái đã trở thành thực tại, bạn bỏ lỡ. Và nếu
bạn lắng nghe tâm trí này, cái cứ đòi thêm nữa và nữa và nữa, nó sẽ dẫn bạn tới
tận cùng, tới cực đoan. Và bỗng nhiên bạn rơi vào trong địa ngục, và bạn khổ,
bất hạnh. Dù bạn thu được
bất kì cái gì, làm thành tiêu chuẩn: nếu bạn cảm thấy tốt, nếu bạn cảm thấy
khoẻ khoắn, nếu bạn cảm thấy phúc lạc, im lặng, an bình, vui vẻ nào đó bao
quanh bạn, cuộc sống đã trở thành bài ca cho khoảnh khắc này - thế thì hát nó
lên! Đừng đòi hỏi thêm! Nhai nó, hấp thu nó. Đừng đòi hỏi thêm. Lui lại... đó
là nghĩa của lui thân. Bây giờ chấm dứt nỗ lực thêm nữa - đủ rồi! Bạn đã thu
được - bây giờ để cho nó đấy, tận hưởng nó. Sống nó! Và thế thì bạn sẽ thấy: chiều
hướng mới tới cho sự hiện hữu của bạn. Có hai chiều.
Một là chiều ngang... thêm nữa, nữa, nữa - đó là chiều ngang. Bạn đi theo đường
thẳng. Bạn đang tại điểm A; bạn muốn ở điểm B. Khi bạn ở điểm B, bạn muốn ở
điểm C. Chẳng mấy chốc bạn đạt tới XYZ. Và từ Z là địa ngục. Z là cánh cửa của
địa ngục. Nhưng bạn không thể dừng được, tâm trí cứ tiếp tục. Tâm trí nói,
"Nhìn đây, mình đang ở C, và D là có thể. Vậy sao phí thời gian ở C làm
gì, đi béng sang D. Thế thì E trở thành có thể, cho nên đi tới E." Không
khoảnh khắc nào để tận hưởng, không khoảnh khắc nào để mở hội, không khoảnh
khắc nào để lui lại và hiện hữu. Làm, làm - chẳng bao giờ hiện hữu...
bởi vì hiện hữu nghĩa là C là đủ, bây giờ tận hưởng nó. Bạn đã kiếm được bánh
mì cho hôm nay - bây giờ nghỉ đi. Nhưng tâm trí nói, "Thế số tiền tiết
kiệm ở ngân hàng thì sao? Nó mới được một nửa. Mình phải làm đầy nó hoàn toàn
đã chứ... " Tại Ấn Độ họ
gọi điều đó là cái vòng luẩn quẩn của chín mươi chín. Họ có một câu chuyện. Một thợ cạo
nghèo đã rất hạnh phúc, cực kì hạnh phúc, vì đôi khi chỉ người nghèo mới có thể
như vậy. Anh ta chẳng có gì để mà lo nghĩ cả. Anh ta là thợ cạo cho nhà vua;
anh ta hay xoa bóp cho vua, cắt tóc cho vua, phục vụ vua hàng ngày. Ngay cả nhà vua
cũng ghen tị và ông ta bao giờ cũng hỏi anh ta, "Bí mật của hạnh phúc của
ngươi là gì? Ngươi bao giờ cũng sôi sục. Người dường như không bước đi trên
đất, người đơn giản di chuyển trên cánh. Bí mật gì có đó?" Thợ cạo nghèo
nói, "Thần không biết. Trong thực tế, thần chưa bao giờ nghe nói tới từ
'bí mật' trước đây. Bệ hạ ngụ ý gì? Thần đơn giản hạnh phúc. Thần kiếm cơm ăn
và có vậy thôi... và thế rồi thần nghỉ ngơi." Anh ta phải là một người
kiểu Lão Tử. Thế rồi nhà vua
mới hỏi vizier của mình, tể tướng của mình - và ông này là một con người
hiểu biết, một người rất rất hiểu biết. Nhà vua hỏi ông ấy, "Khanh phải
biết bí mật của người thợ cạo này. Ta là vua lớn. Ta không hạnh phúc được như
vậy, nhưng người nghèo này, chẳng có gì, mà hạnh phúc thế." Tể tướng nói,
"Anh ta chẳng có gì gắn với cái vòng luẩn quẩn của chín mươi chín
cả." Nhà vua nói,
"Cái gì vậy?" Ông vizier cười to và nói, "Bệ hạ đang
trong nó nhưng bệ hạ không biết về nó. Chúng ta đều làm một điều. Đêm nay
chúng ta sẽ ném cái túi có chứa chín mươi chín đồng ru pi vào nhà người thợ cạo
này, và thế rồi xem điều gì xảy ra." Họ ném một cái
túi có chứa chín mươi chín ru pi vào ngôi nhà ấy. Ngày hôm sau
người thợ cạo bị trong địa ngục. Anh ta trở nên rất buồn rầu và lo nghĩ; trong
thực tế, cả đêm anh ta không thể nào ngủ được. Anh ta đếm đi đếm các đồng ru
pi trong túi - chín mươi chín. Và anh ta bị kích động thế - làm sao ngủ được
khi bạn bị kích động? Tim đập hoài, máu rần rật chảy; phải đã bị cao huyết áp
rồi, kích động. Và anh ta thì hết lập sấp lật ngửa lại trở mình, không thể nào
ngủ nổi. Anh ta sẽ trở dậy, chạm vào những đồng ru pi vàng ấy, lại đếm... anh
ta chưa bao giờ có kinh nghiệm về việc đếm ru pi và chín mươi chín đồng là điều
rắc rối - bởi vì khi bạn có chín mươi chín đồng thì bạn muốn chúng thành một
trăm. Cho nên anh ta lập kế hoạch phải làm gì vào ngày hôm sau để kiếm thêm một
đồng ru pi nữa. Một đồng ru pi
vàng là điều khó kiếm. Anh ta chỉ kiếm vài xu và thế là đủ trong những ngày ấy.
Làm sao kiếm được một ru pi? - bởi vì một ru pi, một ru pi vàng gần bằng lương
của cả tháng. Phải làm gì đây? Anh ta lập kế hoạch theo nhiều cách - một người nghèo,
chẳng biết gì mấy về tiền bạc, anh ta lâm vào rắc rối. Anh ta có thể nghĩ về
mỗi một điều: rằng anh ta sẽ nhịn ăn một ngày rồi ăn trong một ngày. Theo cách
này, dần dần anh ta có thể tích luỹ được một ru pi. Và một trăm ru pi sẽ là
tốt... Tâm trí có cái
ngu xuẩn: hoàn chỉnh mọi thứ. Tâm
trí là kẻ cầu toàn. Chín mươi chín sao? Ám ảnh được tạo ra: chúng phải là một
trăm. Anh ta buồn bã.
Ngày hôm sau anh ta tới - anh ta không còn bay trên trời nữa, anh ta ở sâu trên
đất... không chỉ sâu trên đất, mà là một gánh nặng lớn, một thứ như hòn đá treo
quanh cổ anh ta. Nhà vua hỏi,
"Có chuyện gì với ngươi vậy? Ngươi
trông lo nghĩ quá." Anh ta nói
chẳng có gì, bởi vì anh ta không muốn nói về cái túi ấy. Nhưng mỗi ngày tình
huống trở nên tồi tệ hơn. Anh ta không thể xoa bóp tốt được - anh ta không có
năng lượng, nhịn ăn. Thế là nhà vua
nói, "Ngươi đang làm gì vậy? Bây giờ ngươi dường như không có năng lượng
nữa. Và người trông buồn bã và khổ thế. Chuyện gì xảy ra?" Thế là một hôm
anh ta phải kể chuyện cho nhà vua; nhà vua cứ nài nỉ: "Ngươi kể cho ta đi,
ta có thể giúp được. Ngươi chỉ cần kể cho ta vấn đề là gì." Anh ta nói,
"Thần bây giờ là nạn nhân của cái vòng luẩn quẩn của chín mươi chín." Khi bạn có chín
mươi chín thì có cái vòng luẩn quẩn - bạn muốn chúng thành một trăm. Đây là
đường ngang. Và bạn đừng nghĩ rằng khi chúng là một trăm, mọi sự sẽ dừng lại.
Mọi sự chẳng bao giờ dừng lại cả. Tâm trí không biết chỗ dừng lại. Nó không
biết tới việc dừng. Đó là lí do tại sao nó thất bại. Nó cứ đi mà không dừng ở
đâu cả, từ A tới B, từ B tới C, và cứ tiếp tục mãi cho tới Z nó rơi vào địa
ngục. Thế rồi có cách
khác của cuộc sống; chiều đứng - không chiều ngang. Bạn không đi từ A tới B, từ
B tới C - không. Bạn không đi theo đường thẳng, trên cùng bình diện, trên cùng
mức độ - không. Bạn đi từ A tới Al tới A2 tới A3 theo đường đứng, theo chiều
sâu. Bạn đi vào trong chiều sâu của A. Bất kì cái gì trong khoảnh khắc này thì
bạn đều đi sâu vào nó - không từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, mà
trong chính khoảnh khắc này bạn đi sâu nhất có thể được. Và thế thì thậm chí
một khoảnh khắc cũng trở thành vĩnh hằng. Và hạnh phúc của bạn phát triển,
không biết tới biên giới. Và không bao giờ mất quân bình. Bạn bao giờ cũng được
quân bình. Tâm trí chiều đứng bao giờ cũng quân bình bởi vì tâm trí chiều đứng
không còn là tâm trí nữa. Toàn bộ nỗ lực
của thiền là để đem cho bạn tâm trí chiều đứng. Tâm trí chiều đứng thực sự có
nghĩa là vô trí. Thế thì bạn đi từ A tới Al, A2, A3 theo chiều sâu, hay theo
chiều cao thẳng đứng. Khi B tới, lần nữa bạn đi từ Bl tới B2, B3. Bạn không
bao giờ ngã tại bất kì đâu bởi vì bạn bao giờ cũng đi vào trong chiều sâu. Đây
là điều lui thân là gì. Bạn đã kiếm được cơm cho hôm nay, bây giờ thì lui thân. Nhưng bạn không
biết cách lui thân; bạn cứ đi kiếm ăn trong cả giấc mơ của mình nữa. Bạn nằm
xuống và bạn lập kế hoạch cho ngày mai, và không ai biết liệu ngày mai có tới
hay không. Trong thực tế nó chẳng bao giờ tới cả. Bao giờ cũng là hôm nay. Bạn
đang lập kế hoạch cho tương lai, không biết rằng cái chết sẽ phá huỷ mọi tương
lai. Vẫn còn trong khoảnh khắc này đi - hãy trí huệ. Sống nó một cách toàn bộ
nhất có thể được và thế thì bạn sẽ biết không có cái chết. Bởi vì một người
không lo nghĩ về ngày mai thì biết không có cái chết - người đó trở thành bất
tử. Bởi vì cái chết là ngày mai - cuộc sống là hôm nay. Cái chết là
trong tương lai, cuộc sống bao giờ cũng trong hiện tại - đây là nghĩa của việc
lui thân. Nếu bạn muốn tôi dịch từ này lui thân "retire" thì tôi sẽ
gọi nó là tính chất sannyas. Bạn phải lui thân không ở chỗ tận cùng của
cuộc sống; lui thân mọi ngày, lui thân mọi khoảnh khắc. Khi bạn đã tận hưởng
một khoảnh khắc thì đó là việc lui thân, chính qua việc lui thân mà nó là việc
mang tính chất sannyas. Khi bạn từ văn
phòng trở về nhà, bỏ văn phòng lại trong văn phòng đi. Đừng mang nó trong đầu
bạn, bằng không thì cái đầu sẽ bị đau đấy - nhất định là phải đau rồi! Một thứ
lớn lao thế, văn phòng, bạn mang nó trong đầu mình! Nó là điều nặng nề! Cả chợ
bạn mang trong đầu mình - nó là điều nặng nề! Falibhai đi ra thị trường chứng
khoán. Anh ta biết. Bạn có thể mang thị trường chứng khoán trong đầu mình; thế
thì điều đó là điên khùng. Nhưng anh ta chẳng bao giờ mang nó cả; anh ta đã học
cách lui thân trong nó. Lui thân mọi
ngày, lui thân mọi khoảnh khắc... Chính từ "lui thân" có vẻ không tốt
với chúng ta; nó cho cảm giác về tuổi già, không có khả năng. Đâu đó bên ngoài
sáu mươi lăm, khi cái chết tới gần, thế thì người ta lui thân. Không, từ
"lui thân" là rất đẹp. Nó là ý nghĩa của của sannyas. Lui thân
có nghĩa nghỉ ngơi: công việc đã làm xong, bây giờ lui thân, tận hưởng nó. Đừng
trì hoãn việc tận hưởng, đó là ý nghĩa của từ "lui thân." Tận hưởng ở
đây và bây giờ. Nên việc, lui thân, Đó là đạo trời. Đó
là Đạo. Đừng bao giờ đi tới cực đoan, công việc bao giờ cũng được thực hiện bên
trong các giới hạn. Vẫn còn trong các giới hạn, được bao trong các giới hạn. Đó
là kỉ luật, kỉ luật của một sannyasin - bao giờ cũng vẫn còn tại chỗ
giữa, bao giờ cũng vẫn còn bên trong các giới hạn, bao giờ cũng được thoả mãn,
không khao khát đuổi theo nhiều nữa, nữa và nữa. Vứt bỏ đường
ngang; đi vào trong đường đứng. Lui thân. Và bạn sẽ được mãn nguyện; bạn sẽ
biết sự hoàn thành lớn nhất mà cuộc sống có thể cho bạn. Đó là khoảnh khắc sâu
sắc của quân bình toàn bộ, sự lặng lẽ. Chúng ta đã gọi nó là chứng ngộ, giải
thoát, moksha, niết bàn - hay cái bạn gọi tên cho nó. Câu hỏi thứ
nhất: Thầy đã nói
rằng mọi cử chỉ của bậc thầy đều có ý nghĩa, và thường câu trả lời được trao
trong điều không được nói ra chứ không phải là điều được nói ra. Nhưng thường
khi thầy nhìn hay liếc nhìn tôi, và tôi cảm thấy có thông điệp, tôi không biết
cách xác định thông điệp này mà không dùng tâm trí mình. Và ngay cả khi tôi có
dùng tâm trí thì tôi cũng không đảm bảo. Tâm trí không
thể được dùng. Một khi bạn dùng tâm trí, bạn đã bỏ lỡ vấn đề rồi. Im lặng phải
được hiểu trong im lặng; thông điệp vô lời là để được hiểu một cách vô lời. Nếu
bạn cố hiểu qua lời và qua tâm trí thì bạn sẽ bỏ lỡ nó, bạn sẽ hiểu lầm nó. Thế
thì tâm trí riêng của bạn đã bước vào. Thế thì bạn sẽ diễn giải nó. Thế thì nó
sẽ không thuần khiết, nó sẽ không như cũ. Và nếu bạn hỏi,
"Thế thì phải làm gì?" thì bạn đang hỏi một câu hỏi sai. Câu hỏi về
cách thức nảy sinh từ tâm trí. Không có câu hỏi về cách thức. Im lặng. Đừng làm
gì cả, đừng cố gắng diễn giải nó, đừng cố gắng theo bất kì cách nào can thiệp
vào nó - cứ để cho nó lan toả khắp bản thể bạn. Bạn có thể không có khả năng
xác định nó ngay bây giờ bởi vì nó còn bao la hơn tâm trí và mọi xác định đều
là từ tâm trí. Bạn có thể không có khả năng biết đích xác nó là gì, nhưng không
có nhu cầu. Bạn có thể không có khả năng khám phá, giải mã ý nghĩa của nó,
nhưng không có nhu cầu. Cứ để thông điệp vô lời đạt tới trung tâm vô lời của
bạn. Nó là tiếp xúc sâu sắc, và tiếp xúc là ý nghĩa. Nó là xuyên thấu sâu sắc,
và xuyên thấu là ý nghĩa. Bạn đi qua một
bụi hồng và bạn nhìn vào một bông hồng. Ý nghĩa là gì? Nếu bạn bắt đầu nghĩ về
bông hồng, thì tâm trí đi vào và bông hồng bị mất. Thế thì tâm trí tạo ra bức
tường các lời, các ý nghĩ, khái niệm và bạn thậm chí không thể thấy được bông
hồng ở đó. Bạn đừng cố
gắng tìm ra ý nghĩa. Ý nghĩa và sự ám ảnh thường xuyên với ý nghĩa là bệnh tật
của tâm trí. Ý nghĩa của bông hồng là gì? Không có ý nghĩa. Nó nở hoa mà chẳng
có ý nghĩa gì. Nó không cần ý nghĩa để biện minh cho bản thân nó; nó được biện
minh trong sự hiện hữu của nó. Bạn chỉ để cho nó hiện hữu, và bạn hiện hữu cùng
nó. Để cho bông hồng thấm sâu vào bạn, để cho bông hồng lan toả hương thơm
quanh bạn và trong bạn, và bỗng nhiên cái gì đó khuấy động bên trong bản thể
của bạn - cái gì đó đã nảy sinh. Bông hồng đã làm điều gì đó trong bạn. Cho dù
vậy, bạn có thể không có khả năng biết bông hồng đã làm cái gì nhưng bạn sẽ cảm
thấy hạnh phúc hơn, phúc lạc hơn; bạn sẽ cảm thấy đã có tiếp xúc với cái chưa
biết. Bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã được trao cho một cơ hội để nhìn vào bên
trong cái chưa biết. Bạn sẽ cảm thấy rằng hoa hồng đã trở thành cửa sổ và bầu
trời bao la đã mở ra - đã có chỗ nứt trong bức tường tâm trí của bạn, và tia
sáng lọt vào. Đừng bận tâm về ý nghĩa. Khi tôi nhìn
bạn, bạn đơn giản nhìn tôi! Khi tôi đang trao cho bạn bản thể của tôi, bạn trao
cho tôi bản thể của bạn. Sẵn có, để cho nó là sự tiếp xúc. Đấy không phải là
trao đổi, đấy là giao cảm. Tôi không trao đổi thông điệp nào đó mà có thể được
giải đoán, giải mã - không. Tôi đang trao bản thân tôi cho bạn trong cử chỉ đó.
Nó còn lớn hơn bất kì nghĩa nào có thể được trao cho nó - và bạn cũng lớn hơn.
Nếu tiếp xúc xảy ra, bạn sẽ cảm thấy rằng các biên giới đã tan biến. Trong một
khoảnh khắc bạn không có đó. Trong một khoảnh khắc bạn bị tôi sở hữu - và không
chỉ bởi tôi mà, qua tôi, bị cái toàn thể sở hữu. Cho nên bất kì khi nào tôi
nhìn vào bạn, bất kì khi nào tôi muốn xuyên thấu vào mắt bạn, bất kì khi nào tôi
gõ cửa bạn, vào trái tim bạn, mở cửa ra. Đừng cố gắng
tìm ra ý nghĩa. Trong việc tìm ý nghĩa bạn sẽ bỏ lỡ ý nghĩa - bởi vì tiếp xúc
là ý nghĩa, cái ôm choàng bên trong sâu sắc là ý nghĩa. Câu hỏi thứ
hai: Tâm trí tôi
trong trạng thái lẫn lộn tới mức không thể nào vẫn còn ở giữa được. Chẳng lẽ
không tốt hơn sao nếu tôi cứ theo tâm trí trong đủ mọi cực đoan của nó để cho tôi
có thể kinh nghiệm toàn bộ cái ngớ ngẩn của nó? Phần thứ nhất
của câu hỏi này: Tâm trí tôi
trong trạng thái lẫn lộn tới mức không thể nào vẫn còn ở giữa được. Tôi không nói
rằng bạn nên vẫn còn ở giữa. Nếu bạn cố gắng vẫn còn ở giữa thì bạn sẽ chẳng
bao giờ ở giữa được. Chỗ giữa là quân bình; bạn không thể cố gắng ở đó được.
Bạn sẽ phải nghiêng sang trái, bạn sẽ phải nghiêng sang phải. Đừng níu bám lấy
bất kì vị trí nào. Tự do. Và giữa việc nghiêng sang trái và việc nghiêng sang
phải, ở đâu đó một điểm tinh tế nảy sinh trong bạn. Nó không ở bên ngoài bạn.
Nếu bạn cứ nhìn ra ngoài thì có bên trái và bên phải; không có chỗ giữa. Điều đó cũng
giống hệt thời gian. Không gian và thời gian là cùng nhau. Cố hiểu đi. Nếu bạn
nhìn vào đồng hồ thì có quá khứ và có tương lai, không có hiện tại. Đồng hồ của
bạn chưa bao giờ nói hiện tại là gì - nó không thể nói được, bởi vì khoảnh khắc
nó nói điều đó, thì điều đó đã là quá khứ rồi. Cho nên các kim đồng hồ cứ
chuyển động từ quá khứ sang tương lai; không có hiện tại trong đồng hồ của bạn
- không thể có được. Hiện tại không phải là một phần của thời gian. Bạn đã học
trong trường phổ thông và trường đại học rằng hiện tại là một phần của thời
gian - đó là điều ngớ ngẩn. Hiện tại không phải là một phần của thời gian. Bạn
đã nghe điều đó được lặp biết bao nhiêu lần rằng thời gian được chia thành ba
thời - quá khứ, hiện tại và tương lai - đến mức điều đó đã trở thành ước định
trong tâm trí bạn. Không. Thời gian chỉ có hai phân chia: quá khứ và tương lai. Thế thì hiện
tại ở đâu? Hiện tại
là ở trong bạn. Nếu bạn nhìn ra, bạn sẽ thấy quá khứ và tương lai; nếu bạn nhìn
vào, bạn sẽ thấy hiện tại và bao giờ cũng hiện tại. Không có quá khứ và không
có tương lai - không thể có được. Bạn đi vào bên
trong, và bạn đi vào trong cái vĩnh hằng của hiện tại; bạn đi ra ngoài, hoặc là
bạn đi vào trong quá khứ hoặc bạn đi vào trong tương lai. Và cùng điều đó
cũng đúng cho không gian - trong không gian có hoặc bên trái hoặc bên phải. Nếu
bạn nghiêng sang bên trái thì nó là ở ngoài, nếu bạn nghiêng sang bên phải thì
đấy cũng là ở ngoài. Nhưng nếu bạn thu được quân bình giữa hai bên, bỗng nhiên
bạn ở trong. Điểm giữa là ở bên trong bạn, nó không phải là một phần của không
gian bên ngoài. Trong thực tế, hiện tại và chỗ giữa là cùng nhau. Bất kì khi
nào bạn ở chỗ giữa, bạn đều trong hiện tại. Chỗ giữa không phải là một vị trí ở
ngoài bạn. Nó là một hiện tượng bên trong cũng giống như hiện tại. Cho nên khi tôi
nói hay Lão Tử nói, "Quân bình," thì chúng tôi không nói làm việc
quân bình thành một hiện tượng tĩnh tại trong cuộc sống của bạn. Nó không thể
tĩnh tại được, bạn sẽ phải liên tục duy trì nó, chuyển sang trái và phải. Trong
sự chuyển động đó đôi khi bạn sẽ đi qua điểm bên trong nhất của bản thể của
mình và bỗng nhiên bạn sẽ ở chỗ giữa. Và bỗng nhiên bạn sẽ thấy sự khép lại -
không phải bùng nổ ra. Sự khép lại. Cái gì đó bên trong khép lại; bỗng nhiên
bạn không còn như cũ nữa. Bất kì khi nào bạn đi qua vị trí của chỗ giữa bên
trong, bạn không còn như cũ nữa - bạn trở nên sống mãnh liệt, bạn trở nên hồn
nhiên mãnh liệt, bạn trở nên thuần khiết và thánh thiện mãnh liệt. Trong khoảnh
khắc đó không có bóng tối cho bạn, không tội lỗi, không mặc cảm. Bạn là điều
thiêng liêng, bạn là Thượng đế bất kì khi nào bạn có thể tìm ra quân bình đó.
Nhưng bạn không thể nào tìm ra nó được một lần cho tất cả - không. Cuộc sống
bao giờ cũng là cân bằng thường xuyên, sự liên tục, thể liên tục. Bạn không thể
nào làm nó thành món hàng mà bạn mua một lần và bây giờ nó bao giờ cũng có đó
trong nhà bạn. Không. Nếu bạn không nhận biết, bạn sẽ bỏ lỡ nó lặp đi lặp lại. Đây là phần thứ
nhất của câu hỏi của bạn: chỗ giữa không phải là điểm cố định bên ngoài. Bạn có
thể đạt tới nó từ hoặc điểm đặc biệt, hoặc cố gắng thu được quân bình từ khoảnh
khắc nọ sang khoảnh khắc kia giữa các cái đối lập - ghét trong yêu, giận dữ
trong từ bi. Giữ quân bình
giữa các cái đối lập. Dần dần bạn sẽ đi tới cảm nhận sự thành thạo về nó. Tại
đâu đó giữa ghét và yêu nó xảy ra. Tôi nói "đâu đó" - cái điểm không
thể hình dung ra; nó là hiện tượng sống đến mức bạn không thể chỉ rõ nó ra
được. Nó cũng giống như con bướm bay trong vườn - nếu bạn bắt bướm và ghim nó
xuống thì nó chết. Bạn có thể ghim nó xuống nhưng nó không còn là bướm nữa,
cuộc sống đã từ bỏ nó. Giống như con
bướm là quân bình bên trong, bạn không thể ghim nó xuống được. Đó là lí do tại
sao điều đó không thể định nghĩa nổi, khó nắm bắt. Lão Tử nói: Đạo có thể được
nói ra thì không còn là Đạo nữa. Chân lí mà có thể được thốt ra thì đã trở
thành phi chân lí. Kinh sách Ấn Độ nói "Cái đó" không thể được biết
bởi kinh sách. nayam atma pravachanen labhya. Bạn không thể hiểu được
"Cái đó" bằng bất kì trao đổi lời nào. "Cái đó" là khó nắm
bắt bởi vì nó sống động thế. Vào lúc bạn đạt tới nó thì con bướm đã mất rồi. Cứ
tới mà xem. Đi vào vườn. Bạn tới gần nữa và con bướm sắp bay đi. Khi bạn tới
gần tại điểm bắt nó thì nó đã rời bỏ đoá hoa, nó đã trên cây khác rồi. Bạn
không thể ghim nó được. Nếu bạn có thể làm được điều đó, nó chết. Tôi mới đọc hôm
qua một trong những nhà thơ rất nhạy cảm của phương Tây, Wallace Stevens. Trong
một trong những câu châm ngôn của mình ông ấy nói Aristotle là bộ xương. Tôi
thích điều đó. Logic là bộ xương. Logic bao giờ cũng là cái chết, của cái chết.
Nó không thuộc vào cuộc sống. Bất kì cái gì cố định thì bao giờ cũng chết - đó
là lí do tại sao tôi nói hôn nhân là con bướm bị ghim lại; tình yêu là hiện
tượng sống động. Bạn có thể định
nghĩa hôn nhân, bạn không thể định nghĩa được tình yêu. Cho dù toà án có thể
quyết định hôn nhân là gì hay không là gì, nhưng không ai có thể quyết định
được tình yêu là gì. Hôn nhân là làm hợp pháp; tình yêu là siêu việt lên mọi
luật pháp - cái gì đó của cái không biết thấm vào trong tình yêu, vào trong
hiện tượng yêu. Quân bình bên
trong không thể bị bắt buộc, bạn sẽ phải tìm ra sự thành thạo về nó. Và bạn có
thể tìm thấy nó - bởi vì nếu tôi có thể tìm thấy nó, sao bạn không tìm được?
Nếu Lão Tử có thể tìm thấy nó, sao bạn không tìm được? Nếu một người tìm thấy quân
bình bên trong, cân bằng bên trong, tiếng nó nhỏ bé tĩnh lặng bên trong, thành
thạo bên trong vượt qua mọi hiểu biết, thế thì mọi người đều trở nên có khả
năng về nó. Trong Lão Tử là tương lai của bạn, khả năng của bạn. Bạn cũng có
thể làm được điều đó. Bạn nói: Tâm trí tôi
trong trạng thái lẫn lộn tới mức không thể nào vẫn còn ở giữa được. Đừng cố gắng
vẫn còn ở giữa, quên chỗ giữa đi. Cố gắng quân bình. Đi vào trong cái cái đối
lập nhưng bao giờ cũng vẫn còn tỉnh táo để cho một ngày nào đó bạn có thể tìm
thấy quân bình giữa hai cái đối lập. Và bạn đang làm điều đó đấy - chỉ nhận
biết là cần. Mới khoảnh khắc trước bạn còn hạnh phúc, thế rồi sang khoảnh khắc
khác bạn bất hạnh. Bạn đã chuyển sang cái đối lập. Bạn phải đã đi qua chỗ giữa
rồi. Làm sao bạn có thể chuyển sang cái đối lập mà không đi qua chỗ giữa được?
Có thể bạn đã đi qua nó chỉ một phần của giây, nhưng điều đó không phải là vấn
đề; bạn đã đi qua nó. Nếu như bạn có chút ít tỉnh táo, bạn đã biết chỗ giữa ở
đâu. Ngay bây giờ bạn im lặng thế, rồi một phút qua và toàn bộ tâm trí bạn bắt
đầu huyên thuyên. Bạn phải đã đi qua chỗ giữa ở đâu đó. Khi một người
chết, người đó còn sống chỉ mới khoảnh khắc trước, thế rồi người đó chết. Nếu
người đó tỉnh táo thì người đó sẽ thấy chỗ giữa vượt ra ngoài cái chết và cuộc
sống, bất tử. Nhưng người đó không tỉnh táo. Bạn đã chết nhiều lần; hàng triệu
lần, trong thực tế bạn đã đi qua chỗ giữa nhiều lần, hàng nghìn lần: từ bi và
giận dữ, một người cảm thấy tốt thế và bỗng nhiên tồi thế, một người cảm thấy
thánh thiện thế vào buổi sáng... nhìn mọi người đang cầu nguyện gần sông Hằng
hay trong đền chùa - nhìn vào khuôn mặt họ, đẹp thế. Những khuôn mặt xấu xí
nhất cũng trở nên đẹp khi có lời cầu nguyện. Và thế rồi nhìn vào họ trong chợ -
ngay cả khuôn mặt đẹp nhất cũng có vẻ xấu. Họ phải đã đi qua điều đó ở đâu đó -
từ đền tới chợ phải đã có một điểm giữa - nhưng họ không nhận biết. Cho nên phải
làm gì? Đừng cố gắng ở chỗ giữa. Tôi không nói cố gắng giận dữ chút ít và từ bi
chút ít cùng nhau - không. Tôi không nói cố gắng ở giữa - bạn sẽ phát điên. Tôi
đang nói chuyển từ cái đối lập nọ sang cái đối lập kia, nhưng chuyển một cách
tỉnh táo tới mức bạn có thể tìm thấy điểm giữa ở bên trong mình. Khoảnh khắc
bạn tìm thấy điểm giữa, lần đầu tiên bạn trở thành người chủ cuộc sống của
mình. Mãi cho tới giờ bạn đã chỉ là nô lệ. Lần đầu tiên bạn trở nên thức tỉnh -
mãi cho tới giờ bạn đã ngủ say. Và phần thứ hai
của câu hỏi: Chẳng lẽ
không tốt hơn sao nếu tôi cứ theo tâm trí trong đủ mọi cực đoan của nó để cho tôi
có thể kinh nghiệm toàn bộ cái ngớ ngẩn của nó?
Mọi người đều
chưa bao giờ có khả năng kinh nghiệm được toàn bộ cái ngớ ngẩn của tâm trí. Nó
là vô hạn. Bạn sẽ không có khả năng kinh nghiệm toàn bộ về nó; nó là rất bịa
đặt, nó cứ bịa ra những cái ngớ ngẩn mới. Bạn đã ở đây trong sự tồn tại này lâu
thế ấy vậy mà bạn vẫn không có khả năng kinh nghiệm toàn bộ cái ngớ ngẩn của
nó. Bạn không phải là lần đầu tiên ở trên hành tinh trái đất này, bạn đã ở đây
từ trước rồi. Tôi có thể thấy những khuôn mặt cổ đại của các bạn, ẩn bên dưới
làn da tươi trẻ của bạn. Bạn là người cổ xưa. Đã có một thầy
giáo vào thời của Phật ở Ấn Độ; tên ông ấy là Prakuddha Katyayana. Ông ấy là
một thầy giáo hiếm hoi. Ông ấy bao giờ cũng gọi đệ tử của mình là người cổ đại.
Thậm chí một đứa trẻ tới gặp Prakuddha Katyayana, ông ấy cũng nói, "Ông
khoẻ không, ông bạn cổ?" Bởi vì mọi người đều già thế, già hơn cả trái
đất. Trái đất không phải già lắm, chỉ... trong thực tế, rất trẻ, mới vị thành
niên. Nhưng bạn còn già hơn mặt trời. Bạn đã từng ở đây từ khi sự tồn tại đã ở
đây, bằng không thì điều đó là không thể được - bạn không thể bỗng nhiên bật ra
được. Làm sao bạn có thể xảy ra một cách ngẫu nhiên thế? Bạn đã từng ở đây theo
mọi cách. Một trong những
nhà tâm lí lớn nhất của Mĩ, William James, đã viết một cuốn sách trở thành một
cột mốc rất quan trọng trong lịch sử tâm lí học và tôn giáo. Tên của cuốn sách
là Sự đa dạng của kinh nghiệm tôn giáo. Ông ấy đã du hành khắp thế giới
để thu thập tài liệu cho cuốn sách. Nhiều cuốn sách đã được viết ra từ đó về
tôn giáo, nhưng không cuốn sách nào đã đạt tới đỉnh cao đó. William James đã
làm việc vất vả về nó. Ông ấy cũng tới Ấn Độ, ông ấy phải tới - nếu bạn viết
một cuốn sách về tôn giáo thế thì Ấn Độ trở thành nơi phải tới. Ông ấy tới Ấn
Độ và ông ấy tới gặp một hiền nhân trên Himalayas. Ông ấy không nêu tên; trong
thực tế các hiền nhân đều không có tên, cho nên cũng không cần. Ông ấy đã tới
gặp hiền nhân này và ông ấy đã hỏi một câu hỏi. Ông ấy đã đọc kinh sách Ấn Độ
mà trong đó có nói rằng trái đất được tám con voi trắng đỡ. Ông ấy phân vân
- ông ấy là nhà logic - cho nên ông ấy hỏi hiền nhân này, "Điều này có vẻ
ngớ ngẩn. Tám con voi đó đứng trên cái gì? Chúng được đỡ làm sao? " Hiền nhân này
nói, "Trên tám con voi trắng khác và lớn hơn." William James
nói, "Nhưng điều đó chẳng giải quyết được vấn đề. Những con voi trắng lớn
hơn đó đứng trên cái gì? " Hiền nhân này
cười to và ông ấy nói, "Voi đứng trên voi, voi trên voi, tất cả cứ như thế
xuống. Ông có thể cứ hỏi," hiền nhân này nói, "và tôi sẽ cứ trả lời
cùng điều - tới tận đáy." Thế là William
James nghĩ rằng một câu hỏi nữa có thể được hỏi: "Và cái đáy đó được cái
gì đỡ cho?" Hiền nhân này nói, "Tất nhiên, tám con voi lớn hơn." Nó cứ tiếp diễn
mãi - tất nhiên nó phải là như vậy rồi. Nếu bạn đi ngược lại thì bạn sẽ thấy
bản thân mình lặp đi lặp lại mãi. Bằng không thì làm sao bạn có thể ở đây được?
Bạn được kiếp sống quá khứ của mình nâng đỡ, đó là lí do tại sao bạn lại ở đây.
Và kiếp sống quá khứ của bạn được hỗ trợ bởi kiếp sống quá khứ khác - đó là lí
do tại sao bạn đã ở trong kiếp sống quá khứ của mình. Và điều này cứ tiếp diễn
mãi và bạn không thể nào hỏi, "Lần đầu tiên tôi đã tới như thế nào?"
Bạn chưa bao giờ tới lần đầu tiên, ngay cả trước khi bạn hiện hữu. Ngay cả
trước lần đầu tiên thì bạn cũng vẫn được hỗ trợ bởi kiếp sống quá khứ - voi
trên voi, voi trên voi. Người Hindus thực là tuyệt. Họ tạo ra câu chuyện ngớ
ngẩn, nhưng những câu chuyện ngớ ngẩn đó lại có nghĩa và ý nghĩa sâu sắc. Bạn ở
đây chỉ bởi vì toàn bộ quá khứ - không phải quá khứ của bạn, toàn bộ quá
khứ của sự tồn tại - đều hỗ trợ cho bạn. Bạn là toàn bộ quá khứ ấy vậy mà bạn
vẫn không có khả năng vét cạn tất cả những cái ngớ ngẩn của nó. Bạn có cho rằng
sẽ có khả năng vét cạn mọi cái ngớ ngẩn của tâm trí không? Không, không ai đã
bao giờ có khả năng làm được điều đó. Nếu bạn trở nên nhận biết, thì thậm chí
một ngày cũng là đủ. Nếu bạn vẫn còn không nhận biết, thậm chí cả triệu kiếp
sống cũng không đủ. Nếu bạn trở nên nhận biết, thậm chí một khoảnh khắc cũng đủ
để thấy cái ngớ ngẩn của tâm trí. Còn nếu bạn cứ ngủ và ngáy thế thì bạn có thể
cứ ngủ và ngáy. Đó là cách bạn đã từng ở trong quá khứ, cùng điều bạn có thể ở
trong tương lai. Không, với việc
ngủ bạn sẽ không bao giờ vét cạn cái ngớ ngẩn của tâm trí được. Đừng hi vọng;
điều đó là vô vọng. Điều đó không thể được thực hiện. Điều đó là không thể
được. Trở nên tỉnh táo, và bỗng nhiên bạn có thể thấy. Bởi vì cái ngớ ngẩn
không thể nào bị vét cạn bằng việc kinh nghiệm, chúng chỉ có thể bị cạn kiệt
bởi việc kinh nghiệm với nhận biết. Với kinh nghiệm một mình bạn sẽ không có
khả năng vét cạn chúng. Bạn yêu một
người đàn bà nhưng mối quan hệ trở thành tẻ nhạt và mọi sự đi sai. Thế rồi bạn
bắt đầu nghĩ tới người đàn bà khác. Tâm trí nói, "Người đàn bà này không
đúng dành cho mình, nhưng có người đàn bà đúng. Mình phải cố gắng tìm cho ra cô
ấy. Mình bị móc vào người đàn bà sai, đấy là lí do tại sao vấn đề đã nảy
sinh." Vấn đề đã không nảy sinh bởi người đàn bà này - nhớ lấy. Nếu bạn
tỉnh táo thì bạn sẽ thấy vấn đề nảy sinh bởi vì ham muốn, không phải bởi vì
người đàn bà này. Nhưng tâm trí nói, "Bỏ người đàn bà này, li dị đi,
chuyển sang người khác." Và với người khác, cùng điều ấy xảy ra - tâm
trí nói, "Tìm ai đó khác." Và bạn cứ tiếp diễn mãi. Và tâm trí bao
giờ cũng sẽ hi vọng rằng ai đó một ngày nào đó sẽ lật lại và mọi sự sẽ phải, và
bạn sẽ trên cõi trời. Điều đó đã
không xảy ra, nó sẽ không xảy ra. Bằng không thì sẽ không có nhu cầu về tôn
giáo, không có nhu cầu về yoga, không có nhu cầu về Đạo. Dần dần mọi người sẽ
đi tới cuộc sống đúng - nhưng điều đó chẳng bao giờ xảy ra cả. Nhưng hi vọng cứ
chiến thắng so với kinh nghiệm, và tới tận cùng bạn cứ hi vọng rằng một ngày
nào đó, bằng cách nào đó, mọi sự sẽ tốt. Hi vọng là cơ
sở cho mọi ngớ ngẩn còn sự tồn tại thì lại ở mức là với tâm trí dốt nát và ngủ
thì không có hi vọng gì cả. Trở nên tỉnh táo đi. Chuyện xảy ra:
Alexander đi tới Ấn Độ. Ông ấy gặp Diogenes trên đường. Diogenes là một người
hiếm hoi - nếu Diogenes mà gặp Lão Tử, cả hai sẽ ngồi và cười và cười và cười
mãi. Họ có cùng phẩm chất. Alexander đi
qua. Ông ta đã nghe nói rằng Diogenes chỉ ở ngay bên cạnh cho nên ông ta tới
gặp ông này. Ngay cả Alexander cũng bị con người này gây ấn tượng, ngay cả
Alexander cũng cảm thấy yếu ớt trước ông này. Diogenes là một thầy tu fakir
trần trụi, ông ấy chẳng có gì, nhưng sự hiện hữu của ông ấy hấp dẫn thế, quyền
năng thế - tới mức Alexander cũng bị ấn tượng, rất ấn tượng. Trong thực tế
tương truyền rằng ông ấy không bao giờ bị ấn tượng lần nữa bởi bất kì người nào
khác. Ông ấy hỏi bí
mật của điều đó: "Làm sao ông trở nên mạnh mẽ thế, mà chẳng có gì cả? Còn
ta là người chinh phục thế giới, ta đã thắng gần khắp thế giới. Chỉ chút ít
thêm nữa còn bỏ lại; chẳng mấy chốc ta sẽ kết thúc. Còn ông - một người trần
trụi, chẳng có gì - bí mật về hạnh phúc của ông là gì?" Diogenes theo
thuật lại đã nói, "Ta đã từ bỏ hi vọng. Đó là bí mật. Và ta bảo ông, ông
cũng từ bỏ hi vọng đi; bằng không thì ông bao giờ cũng sẽ khổ." Alexander nói,
"Ta sẽ tới ông để học bí mật này, nhưng không phải bây giờ. Ta đang trên
đường - một nửa thế giới, hơn nửa thế giới ta đã thu được, nhưng còn có phần
còn lại. Ta phải trở thành người chinh phục thế giới, thế rồi ta sẽ tới." Diogenes nói,
"Không ai đã bao giờ là kẻ chinh phục thế giới. Cái này hay cái khác vẫn
còn lại cần được tiến hành. Giấc mơ không bao giờ hoàn chỉnh và ham muốn không
bao giờ được mãn nguyện. Nếu ông thực sự hiểu tôi, và nếu ông thực sự thấy rằng
tôi hạnh phúc mà không bận tâm gì tới việc chinh phục cả thế giới, thế thì ông
cũng có thể hạnh phúc mà không có điều đó. " Một cách logic,
trí tuệ, Alexander đã hiểu điều đó. Nhưng ông ấy nói, "Ta sẽ tới sau. Đây
chưa phải là đúng lúc cho ta." Khi ông ấy rời
khỏi Diogenes, Diogenes nói, "Nhớ lấy, ông sẽ chết trước khi ông chinh
phục xong thế giới; mọi người đều đã chết và ông không thể là ngoại lệ." Và điều đó đã
xảy ra. Alexander
chẳng bao giờ về tới nhà. Trở về từ Ấn Độ, ông ấy đã chết trên đường. Ông ấy
phải đã nhớ tới Diogenes, ông fakir trần trụi kia, trong những khoảnh khắc cuối
cùng của mình. Và thế rồi
còn có một câu chuyện khác; tôi không thể bảo đảm về nó. Có một câu chuyện rằng
vào cùng ngày đó thì Diogenes cũng chết. Và họ gặp nhau trên đường sang thế
giới bên kia, đi qua con sông chảy ngăn giữa thế giới này và thế giới kia. Họ
gặp nhau trên con sông đó. Diogenes bắt đầu cười to, và ông ấy nói, "Trông
kìa, ông có nhớ không, ông bạn xuẩn ngốc? Ông đã chết, và ông chết ở chỗ giữa,
còn thắng lợi thì không đầy đủ." Chỉ để vớt
vát lấy thể diện của mình, Alexander cũng cố gắng cười khanh khách nhưng ông ấy
không thể cười được. Chỉ để vớt vát lấy thể diện của mình ông ta nói,
"Vâng, điều này thực là lạ, cuộc gặp gỡ của một hoàng đế và một kẻ ăn mày
trần trụi trên dòng sông này. Nó có thể đã không xảy ra trước đây, nó có thể
không xảy ra lần nữa." Diogenes
cười thậm chí còn vui nhộn hơn và ông ấy nói, "Ông phải đấy, nhưng ông
không hiểu ai là hoàng đế và ai là nô lệ. Và ai là hoàng đế và ai là kẻ ăn mày
- điều đó ông không biết đích xác. Tại đó ông sai, bằng không thì ông đúng: đấy
là cuộc gặp gỡ của một hoàng đế và một kẻ ăn mày, nhưng ta là hoàng đế còn ông
là kẻ ăn mày. Ông đã ăn mày cả thế giới - ông là kẻ ăn mày lớn nhất đã từng có.
Và ta đã sống như một hoàng đế, nhưng nhìn vào điều đã xảy ra cho vương quốc
của ông...." Bây giờ ngay
cả Alexander cũng trần trụi - bởi vì mọi thứ đều phải bị bỏ bên bờ này - và
ông ấy cảm thấy rất xấu hổ và lúng túng, bối rối. Nhưng Diogenes không bối
rối. Ông ấy nói, "Biết rõ điều này, rằng một ngày nào đó người ta phải trở
nên trần trụi, ta đã tự tay ném đi những quần áo này. Bây giờ nhìn cách ông cảm
thấy bối rối trước Thượng đế. Ta sẽ đứng cười, còn ông sẽ thấy mặc cảm và bối
rối và mọi điều. Mọi thứ đều sai quanh ông." Không có khả
năng nào để vét cạn những cái ngớ ngẩn. Ngay cả Alexanders cũng chẳng bao giờ
vét cạn được chúng. Nếu bạn muốn vét cạn chúng thì cách duy nhất là trở nên
nhận biết. Bạn càng trở nên nhận biết thì những cái ngớ ngẩn càng có vẻ ngớ
ngẩn hơn. Khi chúng trông có vẻ ngớ ngẩn, khi bạn thấy chúng ngớ ngẩn, bạn đơn
giản chấm dứt. Bạn không làm chúng thêm nữa. Không có nhu cầu từ bỏ cái gì
trong thế giới này - người ta chỉ nhận biết và mọi thứ vô dụng, vô nghĩa, sẽ tự
loại bỏ chúng, theo cách của chúng. Câu hỏi thứ
ba: Mọi tôn
giáo đều thoái hoá thành một thể chế đạo đức. Thầy ca ngợi Lão Tử bởi vì không
tôn giáo nào có thể phát triển theo con đường của ông ấy. Làm sao những người
yêu thầy tránh việc thoái hoá thể chế như vậy theo cảm hứng của thầy? Nếu bạn bắt
đầu né tránh, thì bạn đã bắt đầu tạo ra nó. Đừng bận tâm về nó. Nếu nó định xảy
ra thì nó sẽ xảy ra; nếu nó không định xảy ra thì nó sẽ không xảy ra. Bạn đừng
bận tâm về nó, bởi vì nếu bạn bắt đầu tự hỏi làm sao tránh nó thì bạn đã mặc
nhiên thừa nhận rằng nó sẽ có đó. Bạn đã trở nên tự ý thức về nó - và điều đó
sẽ giúp tạo ra nó. Phật đã cố
gắng vất vả để thấy rằng tôn giáo của mình sẽ vẫn còn là một hiện tượng sống
chứ không phải là một thể chế chết. Ông ấy đã cố gắng - nhưng ông ấy đã thất
bại. Ông ấy càng cố gắng vất vả hơn, thì lại càng nhiều người cố gắng tạo ra
một thể chế quanh ông ấy hơn. Krishnamurti
đang cố gắng vất vả - và ông ấy sẽ thất bại, bởi vì đây là qui luật. Tại sao
bạn cố gắng vất vả thế? Bạn phải sợ hãi sâu bên dưới rằng điều đó sắp xảy ra.
Và cho dù Krishnamurti có nghĩ rằng điều đó sắp xảy ra, thì điều đó sẽ vẫn sắp
xảy ra. Tôi đã nói với bạn nhiều lần về luật hiệu quả ngược. Nó là một luật tâm
lí rất sâu sắc: làm cái gì đó và điều ngược lại xảy ra. Đó là toàn bộ giáo huấn
của Lão Tử. Ông ấy nói: Nói về trật tự và sẽ có mất trật tự. Cố gắng làm cho
mọi người thành tốt và họ sẽ thành xấu. Và tất cả
các bạn đều biết rằng điều này xảy ra. Bạn cứ thử làm cho con bạn thành thánh thiện
mà xem và bạn sẽ tạo ra nổi dậy đầu tiên trong nó chống bạn. Nó sẽ đi ngược
lại bạn; nó sẽ làm đích xác điều bạn muốn nó không làm. Điều đó chưa
bao giờ xảy ra cho Lão Tử bởi vì ông ấy chưa bao giờ lo nghĩ về nó cả. Nếu nó
xảy ra thì tốt - bạn có thể làm được gì? Khi tôi qua
đời, thì tôi qua đời. Bất kì điều gì xảy ra đều không phải là việc của tôi. Cho
nên đừng lo nghĩ về nó. Nếu nó xảy ra thì nó phải xảy ra. Nếu nó không xảy ra,
thì tốt; nếu nó xảy ra, điều đó nữa cũng tốt. Chúng ta là ai mà nhận trách
nhiệm cho tương lai? Chúng
ta là ai mà quyết định cho tương lai? Không, điều đó không thể được thực hiện.
Bạn đơn giản vứt bỏ toàn bộ ý tưởng này đi. Đừng lo nghĩ. Vứt bỏ ý tưởng này
hoàn toàn và đừng lo nghĩ; đừng cố gắng tạo ra nó và đừng cố gắng tránh nó.
Trong khi tôi ở đây thì ở cùng với tôi đi, mở hội với tôi, vui sướng trong tôi.
Để tôi giúp bạn, cho phép tôi - có vậy thôi. Khi tôi đã ra đi và bạn cũng ra
đi, bất kì cái gì xảy ra... làm sao chúng ta có thể quyết định được nó và tại
sao chúng ta phải lo nghĩ về nó? Trong khi chúng ta đang ở đây, chúng ta nên
dùng cơ hội này, cánh cửa đã mở, con đường đã trở thành thấy được cho bạn - bước
lên nó, đi trên nó; dù mọi người có tạo ra thể chế từ nó hay không thì để cho
họ quyết định. Và chẳng cái gì có thể được làm về nó ngay lúc này. Với tương lai,
đừng bao giờ tạo ra bất kì lo nghĩ nào, bởi vì chính lo nghĩ của bạn sẽ tạo ra
hiệu quả ngược. Bạn có quan sát không? - nếu bạn đi trong tầu hoả, nhìn quanh
mà xem. Bạn có thể đánh giá ai đang đi không có vé bởi vì người đó thường xuyên
lo nghĩ tới người soát vé - luật hiệu quả ngược. Người đó có vẻ sợ hãi, người
đó trông lo nghĩ. Bất kì khi nào ai đó đi vào toa là người đó giật mình nhìn.
Bạn có thể đơn giản thấy ai đi không có vé - người đó đang tạo ra khó khăn
riêng của mình quanh mình. Và đôi khi
chuyện xảy ra là bạn đã mua một chiếc vé, rồi nó rơi khỏi túi bạn nhưng bạn
không nhận biết về điều đó. Bạn không biết rằng bạn không có vé. Thế rồi bạn
bước đi và bạn ngồi cứ như là bạn có vé. Chẳng ai đánh giá cả, chẳng ai có thể
bắt bạn; ngay cả người soát vé cũng sẽ không tới bạn. Anh ta biết rằng bạn phải
đã có vé. Mọi người bao giờ cũng ngạc nhiên rằng khi họ có vé thì chẳng ai tới
kiểm tra cả, còn khi họ không có vé thì bỗng nhiên người soát vé tới, bởi vì
người đó đã trở nên nhận biết về luật nhỏ này - rằng bạn có thể đánh giá ai là
thủ phạm. Không khó khăn gì về điều đó cả. Người đó không thể tự nhiên được,
người đó tạo ra những rung động phi tự nhiên quanh mình. Ngay lập tức người
soát vé đi tới người đó. Đừng bận tâm.
Bạn ở đây; hiện tượng này là sống động ngay bây giờ, rung động, nói về bạn,
thấm vào bạn, giúp đỡ bạn. Bạn chỉ vui sướng trong nó. Và nếu bạn vui sướng
trong nó thì bản thân bạn trở thành một hiện tượng được chiếu sáng ở bên trong,
người khác sẽ vui sướng trong bạn. Và tôn giáo
sống là sống động bởi mọi người vẫn được chứng ngộ trong nó, mọi người vẫn nhận
biết trong nó. Nếu bạn trở nên nhận biết với tôi thì bạn có thể giúp được cho
người khác cũng nhận biết cùng bạn - đấy là phản ứng dây chuyền. Một khi nhận
biết biến mất, dây chuyền này biến mất; lỗ hổng tới, khoảng hở nơi không ai
tỉnh táo, không ai thức tỉnh cả - thế thì tôn giáo chết. Thế thì nó trở thành
giáo phái - Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Jaina giáo. Thế thì nó trở thành nhà
thờ - thế thì có nghi lễ, thế thì chỉ các điệu bộ chết. Nhưng chẳng cái
gì có thể được làm về nó cả. Thay vì thế, chỉ một điều có thể được làm về nó và
đó là - bạn không bận tâm, bởi vì bạn có thể lãng phí thời gian của mình cứ
nghĩ về nó. Bạn chỉ sống trong tôi và cho phép tôi sống trong bạn. Chẳng mấy
chốc bạn sẽ có khả năng... qua ngọn nến đã thắp sáng của bạn mà các ngọn nến
khác có thể được thắp sáng. Tạo ra dây chuyền và chúng sẽ di chuyển theo cách
của chúng. Và đừng bao giờ
nghĩ tới mai. Tương lai không phải là mối quan tâm chút nào. Chỉ hiện tại là hiện
hữu. Câu hỏi thứ tư: Thầy nói tôi
là cái trống rỗng. Từ khi ở đây tôi bắt đầu cảm thấy trung tâm riêng của mình.
Làm sao trung tâm tồn tại được trong cái trống rỗng? Nó tồn tại đấy.
Tôi không thể giải thích cho bạn làm sao hay tại sao được, nó là một sự kiện
đơn giản. Cũng như khoa học nói H2O là nước...hai phần hidro, một
phần ôxi - hai nguyên tử hydro, một nguyên tử ô xi - và việc tổ hợp là nước.
Bạn không thể hỏi tại sao được. Tại sao không ba phần hidro, một phần ô xi? Tại
sao không bốn phần ô xi, một phần hidro? Tại sao H2O, sao không
khác đi? Khoa học sẽ nhún vai, nó sẽ nói: Chúng tôi không biết. Đấy là cách nó
là vậy. Vâng, sự hiện
hữu bên trong của bạn là cái trống rỗng và vậy mà một trung tâm tồn tại. Bạn
đã bao giờ thấy cơn lốc chưa? Vào ngày mùa hè ở Ấn Độ thường có cơn lốc, cơn
gió xoáy. Tới và xem khi gió xoáy đi qua: nó làm quấy đảo mọi hạt bụi xung
quanh, nhưng ngay ở trung tâm không có rối loạn. Ngay cả với cơn gió xoáy, một
trung tâm cũng tồn tại, ngay cả với một cơn lốc trung tâm cũng tồn tại, ngay cả
với cái trống rỗng thì trung tâm cũng tồn tại. Người ta chợt thấy nó, nó là một
sự kiện của sự tồn tại - không có thế nào cho nó. Một cậu nhỏ
đang bước đi cùng với D.H. Lawrence trong vườn, và bỗng nhiên nó hỏi, "Sao
cây xanh?" D. H. Lawrence
nói, "Cây xanh bởi vì chúng xanh." Không gì nhiều
hơn có thể được nói về điều đó. Tất cả mọi lời giải thích đều vô dụng, bạn có
thể nói bởi vì điều này, bởi vì điều nọ - nhưng điều đó nữa đem tới cùng câu
hỏi: Tại sao? Điều ngớ ngẩn là một trung tâm tồn tại cho cái trống rỗng - điều
đó là phi logic, điều đó là bất hợp lí. Nhưng cuộc sống là bất hợp lí. Người ta
phải chấp nhận cuộc sống - cuộc sống không bị buộc phải chấp nhận logic hay lập
luận của bạn theo bất kì cách nào. Điều đó xảy ra
hàng ngày trong khoa học. Khi lần đầu tiên Einstein nói rằng mọi thứ đều tương
đối, toàn thể thế giới khoa học cũ bị rối loạn. Mọi người bắt đầu hỏi: Tại sao?
Thế nào? Một điều rất ngớ ngẩn mà Einstein đã nói, và đó là: nếu một du khách
đi vào không gian vô hạn trên một cuộc hành trình trong con tầu đi nhanh hơn
ánh sáng - ánh sáng đi ba trăm nghìn ki lô mét một giây - nếu con tầu đi nhanh
hơn ánh sáng hay thậm chí bằng với ánh sáng, và nếu con của bạn tiếp tục cuộc
hành trình trong không gian và quay lại sau hai mươi nhăm năm, nó sẽ vẫn cùng
một tuổi. Nếu nó đã đi vào độ tuổi hai mươi nhăm, nó vẫn còn ở độ tuổi hai mươi
nhăm. Bạn nó đã trở thành già năm mươi tuổi trên trái đất nhưng nó sẽ vẫn còn
cùng tuổi ấy. Điều đó là ngớ ngẩn. Mọi người bắt đầu hỏi, "Logic này là gì
vậy?" Einstein nói, "Tôi không thể nói logic này là gì, nó là vậy." Với một tốc độ
vô cùng như thế, bạn không thể già được. Điều đó cũng hệt như đến một trăm độ
thì nước bốc hơi, có vậy thôi. Với tốc độ vô cùng như vậy bạn không thể già
được; bạn sẽ vẫn còn như cũ. Và thậm chí còn ngớ ngẩn hơn - nếu tốc độ có thể
tăng lên gấp đôi, bạn sẽ quay còn trẻ hơn khi bạn ra đi. Nếu bạn ra đi vào độ
tuổi hai mươi và bạn quay về sau mười năm, thì bạn sẽ mười tuổi. Bạn sẽ đi ngược
lại theo thời gian - bởi vì, Einstein nói, việc già đi phụ thuộc vào tốc độ,
vào tốc độ của trái đất. Trái đất đang di chuyển với một tốc độ đặc biệt; việc
già đi của bạn phụ thuộc vào tốc độ đó. Không thể nào tin được! Mâu thuẫn với
mọi logic! Thế rồi các nhà
vật lí thâm nhập sâu vào trong vật chất và bỗng nhiên một hôm họ thấy chẳng có
vật chất. Thế là họ đã phải nói rằng vật chất bao gồm cái trống rỗng; họ đã
phải nói rằng vật chất chẳng là gì ngoài cái trống rỗng đậm đặc. Điều này có vẻ
phi logic. Làm sao cái trống rỗng lại đậm đặc được? Làm sao cột trụ này lại
được tạo ra từ cái trống rỗng đậm đặc? Nhưng bây giờ vật lí nói nó là vậy đấy.
Và tự nhiên và sự tồn tại không tuân theo logic của chúng ta. Chúng có cách
thức riêng của chúng và chúng ta không thể áp đặt logic của chúng ta lên chúng;
logic của chúng ta phải theo cách thức của chúng. Cũng điều đó cũng đúng
cho không gian bên trong. Tất nhiên, logic nói: Làm sao cái trống rỗng có
trung tâm được? Về mặt logic điều đó là không thể được. Khi lần đầu tiên tôi đi
tới trung tâm đó thì cùng câu hỏi này cũng nảy sinh trong tôi nữa: Làm sao cái
trống rỗng có trung tâm? Để có trung tâm
thì cái gì đó là cần thiết - và nó có đó, nhưng nó không nghe theo logic của
chúng ta. Chấp nhận nó vậy, và đừng tạo ra bất kì vấn đề logic nào trong tâm
trí bạn, bởi vì điều đó sẽ chẳng ích gì. Cuộc sống là phi logic. Bạn ở đây. Bạn
có logic gì để nói tại sao bạn ở đây không? Nếu như bạn không ở đây, liệu bạn
có thể hỏi tại sao bạn không ở đây không? Mọi thứ đơn giản hiện hữu. Chẳng cái
gì có thể được công bố, chẳng cái gì có thể được đặt ra, chẳng cái gì có thể
được phóng chiếu, chẳng cái gì có thể được hỏi. Khi bạn trưởng thành trong nhận
biết này: rằng mọi sự đơn giản hiện hữu - thế thì chấp nhận sâu sắc xảy ra. Thế
thì cho dù chúng là phi logic bạn cũng chấp nhận. Bạn không tranh đấu, bạn nổi.
Bạn thậm chí không bơi - bạn đơn giản trong buông bỏ. Và dần dần ngày
càng nhiều bí ẩn được hiển lộ ra. Đó là lí do tại sao tôn giáo nói rằng cuộc
sống là bí ẩn, không phải là vấn đề. Vấn đề có thể được giải quyết; bí ẩn không
bao giờ có thể được giải quyết. Bạn càng giải quyết nó, nó càng trở nên bí ẩn
hơn. Bạn càng biết nó nhiều, bạn lại càng cảm thấy phải được biết. Bạn càng tới
gần nó, bạn càng cảm thấy mình ra xa nó hơn. Upanishads nói
Thượng đế vừa xa vừa gần. Tại sao? Bởi vì bạn càng tới gần, bạn lại càng cảm
thấy ngài ở xa hơn. Bạn gần như chạm vào ngài - và bạn cảm thấy xa xăm. Bạn gần
như thấm vào ngài, bạn gần như trong trái tim ngài, nhưng dầu thế bí ẩn vẫn
không bị tan biến đi. Ngược lại, bí ẩn đã trở thành bí ẩn hơn. Và đó là cái đẹp
của nó. Nghĩ về một thế giới nơi tất cả mọi bí ẩn đều được giải quyết mà xem -
nó sẽ chán làm sao! Nghĩ tới một thế giới tuyệt đối logic, hợp lí, toán học -
nó chán ngán và đơn điệu làm sao! Thế thì sẽ không có khả năng nào cho thơ ca,
sẽ không có khả năng nào cho lãng mạn, sẽ không có khả năng nào cho tình yêu,
và sẽ không có khả năng nào cho bất kì thiền gì. Thiền là đi vào
trong bí ẩn; yêu là gõ vào cùng cánh cửa đó theo cách khác. Nguyện cũng là cho
phép điều bí ẩn, và không tranh đấu chống lại nó bằng tâm trí. Mọi thứ đều đẹp
bởi vì mọi thứ đều là bí ẩn, và bạn không thể tới đáy của nó được. Phân tích
nếu bạn muốn phân tích, nhưng mọi phân tích sẽ tạo ra nhiều vấn đề, nhiều bí ẩn
hơn; câu trả lời, câu trả lời cuối cùng, không thể nào được tìm thấy. Và cũng
tốt là nó không thể nào được tìm thấy. Nếu như nó được tìm thấy thì sao? Thế
thì chính nghĩa và ý nghĩa bị mất. Tôi không phải
là triết gia, ít nhất cũng không phải vậy; nhiều nhất tôi chỉ là nhà thơ. Tôi
nhìn vào cuộc sống và chấp nhận tính sự kiện của nó. Nếu nó làm cho hai với hai
thành bốn, thì tốt thôi. Nếu nó làm hai với hai thành năm, thì cũng tốt. Nếu nó
làm hai với hai thành ba, cũng tốt. Tôi đã nói có cho nó. Và đây là điều tính
tôn giáo nghĩa là gì đối với tôi - nói có, nó là vậy. Câu hỏi thứ
năm: Thầy của
Carlos Castaneda, Don Juan, có là bậc thầy chứng ngộ không? Nếu như có
người nào đó như Don Juan thì người đó sẽ là chứng ngộ, người đó sẽ như một
Phật hay một Lão Tử - nhưng chẳng có ai giống như Don Juan. Cuốn sách của
Carlos Castaneda chín mươi chín phần trăm là hư cấu - hay, nghệ thuật, nhưng hư
cấu. Như có những hư cấu khoa học, có cả những hư cấu tâm linh nữa. Có hư cấu
tâm linh loại ba và hư cấu tâm linh loại một: nếu bạn thích loại ba, thế thì đọc
Lobsang Rampa; nếu bạn muốn loại một, thế thì đọc Carlos Castaneda. Ông ấy là
bậc thầy lớn - về hư cấu. Nhưng tôi nói
chín mươi chín phần trăm hư cấu. Một phần trăm chân lí có đó, ẩn ở đâu đó; bạn
sẽ phải tìm ra nó. Thậm chí đọc nó như sự hư cấu thì cũng tốt. Đừng bận tâm về
hư cấu của Rampa, bởi vì nó là rác rưởi do một tâm trí tầm thường bịa ra - và
tất nhiên cũng tạo ra cho các tâm trí tầm thường. Nhưng Carlos Castaneda thì
đáng đọc. Khi tôi nói hư cấu tôi không ngụ ý đừng đọc ông ấy, tôi ngụ ý phải
đọc ông ấy cẩn thận hơn, bởi vì một phần trăm chân lí có đó. Bạn sẽ phải đọc nó
rất cẩn thận, nhưng đừng ngốn ngấu nó hoàn toàn bởi vì nó là hư cấu chín mươi
chín phần trăm. Nó có thể giúp
cho trưởng thành của bạn - nó có thể tạo ra ham muốn trưởng thành. Đó là lí do
tại sao tôi nói nó hay. Nhưng nó có thể cản trở trưởng thành nữa nếu bạn lấy giá
trị bề mặt của nó. Con người
Carlos này thực sự xảo trá, rất láu cá. Hiếm khi điều đó xảy ra, láu cá như vậy
- bởi vì rất dễ bịa ra hư cấu khoa học, chẳng cần nhiều tưởng tượng gì, nhưng
để tạo ra hư cấu tâm linh thì rất rất khó; người ta cần một tâm trí tưởng tượng
và nghệ thuật lớn. Bởi vì những điều bạn không biết, làm sao bạn thậm chí có
thể hình dung ra chúng được? Đó là lí do tại sao tôi nói một phần trăm chân lí
có đó. Trên một phần trăm chân lí đó ông ấy đã có khả năng bịa ra một dinh thự
lớn. Trên một phần trăm chân lí đó ông ấy đã có khả năng phóng chiếu nhiều
tưởng tượng. Trên một li chân lí đó ông ấy đã dựng nên toàn bộ ngôi nhà, một
lâu đài đẹp - một câu chuyện thần tiên. Nhưng một phần trăm chân lí có đó, bằng
không thì nó đã không thể được. Cho nên một
phần trăm của Don Juan phải có đó ở đâu đó chỗ này chỗ khác. Ông ấy phải đã gặp
ai đó; có thể tên của người này là Don Juan, có thể không, điều đó không thành
vấn đề, không sao cả. Carlos đã bắt gặp một người cao thượng hơn ông ấy, ông ấy
đã bắt gặp một người biết những bí mật nào đó. Có thể ông ấy đã không hiểu
chúng, có thể ông ấy đã đánh cắp chúng, có thể ông ấy chỉ vay mượn chúng từ ai
đó khác. Nhưng ông ấy đã gặp ai đó người đã bằng cách nào đó nhận được một số
sự kiện của cuộc sống tâm linh và người này đã có khả năng tạo ra tưởng tượng
quanh điều đó. Và tưởng tượng này trở thành có thể nếu bạn dùng ma tuý như một
sự giúp đỡ - rất dễ dàng, bởi vì ma tuý không là gì ngoài sự trợ giúp cho tưởng
tượng. Con người này
đã bắt gặp ai đó người biết tới cái gì đó, và thế rồi qua ma tuý, LSD và những
chất khác, ông ấy đã phóng chiếu cái chân lí nhỏ bé đó thành thế giới tưởng
tượng. Thế rồi toàn bộ hư cấu của ông ấy được dựng lên. Nó là cuộc hành trình
ma tuý, nhưng là một thực nghiệm tốt trong bản thân nó. Và khi tôi nói tất cả
những điều này, tôi không lên án Carlos. Trong thực tế tôi đã đi tới yêu mến
con người này. Đây là chuyến bay hi hữu của tưởng tượng, và nếu nó là một trăm
phần trăm hư cấu thì bản thân Carlos cũng là người hiếm hoi. Nếu ông ấy không
bắt gặp người nào hết cả thế thì ông ấy phải có một phần trăm của thực tại
trong mình. Bởi vì bằng không thì điều đó không thể có được - bạn chỉ có thể
xây ngôi nhà trên cái móng, ngay cả ngôi nhà tưởng tượng cũng cần ít nhất một
cái móng trong thực tại. Bạn có thể làm ngôi nhà bằng bìa nhưng ít nhất cũng
trên đất, nền đất cứng là cần thiết. Đến ngần đó là đúng. Cho nên đọc đi,
bởi vì bạn sẽ phải đọc. Mọi trang đều có hư cấu riêng của nó, lãng mạn; người
ta phải đi qua chúng. Bạn sẽ phải đọc. Bạn không thể trốn khỏi Carlos Castaneda
được. Nhưng nhớ rằng chỉ một phần trăm là chân lí - và bạn phải tìm ra nó. Nếu bạn đã đọc
sách của Gurdjieff, đặc biệt cuốn Tất cả và mọi thứ, thế thì bạn có thể
trở thành khéo léo về cách tìm ra chân lí, cách loại vỏ trấu ra khỏi hạt thóc.
Nếu bạn chưa đọc cuốn Tất cả và mọi thứ, đấy là chỗ bắt đầu tốt. Trước
hết bạn nên đọc Tất cả và mọi thứ của George Gurdjieff và thế rồi bạn có
thể đọc sách của Carlos Castaneda. Rất khó huấn luyện để đọc Gurdjieff; trong
thực tế không quá vài tá người hiện có trên thế giới đã đọc cuốn sách Tất cả
và mọi thứ của ông ấy một cách đầy đủ. Điều đó là khó. Nó là cuốn sách một
nghìn trang và Gurdjieff là bậc thầy về che giấu mọi thứ. Ông ấy cứ nói những
điều chẳng liên quan, những điều vô dụng, những chuyện cổ xoay tròn bên trong
truyện cổ - hàng trăm trang và thế rồi một dòng về chân lí, nhưng điều đó đáng
tìm kiếm, nó là kim cương. Một trăm trang rác rưởi, nhưng thế rồi tới kim cương
- nó đáng cho điều đó. Nếu bạn có thể
tìm thấy kim cương trong Gurdjieff thì đấy sẽ là việc huấn luyện lớn cho bạn.
Và thế thì bạn có thể tìm thấy trong Carlos Castaneda cái gì là đúng và cái gì
là không đúng. Bằng không thì bạn có thể trở thành nạn nhân của hư cấu. Và tôi
nghĩ nhiều người Mĩ đặc biệt đang vẩn vơ ở Mexico đi tìm Don Juan. Ngu xuẩn! Câu hỏi thứ
sáu: Như Tilopa
và Bồ đề đạt ma, thầy có nghĩ thầy sẽ phải rời bỏ Ấn Độ để tìm người kế tục
thích hợp không? Bạn ngu! Bạn
không thể thấy tôi đã rời khỏi Ấn Độ rồi sao? Tôi không còn ở đây ở Ấn Độ. Và câu hỏi cuối
cùng... Chinmaya đã hỏi câu hỏi này liên tục trong nhiều ngày, và tôi đã lảng
tránh nó. Nhưng bây giờ là lúc. Anh ấy đã hỏi: Tất
cả các bậc thầy chứng ngộ có hói đầu không? Và bây giờ tôi
không thể tránh được nó nữa, bởi vì trong nỗ lực trở nên hói đầu anh ấy đã cạo
đầu mình. Không có mối
quan hệ nào cả, cho nên đừng cố gắng thành hói đầu. Người hói là
rất láu cá, họ tạo ra tin đồn về chính mình. Một tin đồn họ đã tạo ra trên khắp
thế giới là ở chỗ họ có tiềm năng nhiều dục hơn bất kì ai khác. Tất nhiên người
hói không có hấp dẫn về dục; họ phải tạo ra tin đồn quanh mình. Trên khắp thế
giới trong mọi nước tin đồn đều có rằng người hói nhiều dục hơn, nhiều tiềm
năng dục hơn bất kì ai khác. Đây là một thủ đoạn. Nhưng bây giờ
để tạo ra tin đồn khác rằng người hói là người duy nhất trở nên chứng ngộ thì
sẽ thành quá nhiều! Về tiện dụng của vô hiện hữu: Ba chục căm hợp một bầu; Nhờ chỗ "không", mới có cái "dụng" của
xe. nhồi đất để làm chén bát; Nhờ chỗ "không" Mới có cái "dụng" của
chén bát. Khoét cửa nẻo, làm buồng the, Nhờ chỗ "không" Mới có cái "dụng"
của buồng the. Bởi vậy, lấy cái
"có" đó để làm cái lợi. Lấy cái "không" đó
để làm cái dụng.
1. Đạo thường hằng
2. Bình thường
Câu hỏi thứ ba:
3. Tính cách của Đạo
4. Trống rỗng
Câu hỏi cuối cùng:
5. Nguy hiểm của thành công quá mức
6. Không có nghĩa
7. Tiện dụng của vô hiện hữu
Osho sinh ra tại Kuchwada, Madhya Pradesh, Ấn
Độ, vào ngày 11 tháng 12 năm 1931. Từ thiếu thời
ông đã là một tinh thần độc lập và nổi dậy, nhấn mạnh
tới việc chứng nghiệm chân lí cho chính mình thay vì
thu nhận tri thức và niềm tin do người khác trao lại. Sau khi chứng ngộ ở tuổi hai mươi mốt, Osho
hoàn thành việc học tập hàn lâm và dành nhiều năm
giảng dạy triết học tại Đại học Jabalpur. Đồng thời,
ông đã du hành trong toàn Ấn Độ để nói chuyện,
thách thức các nhà lãnh đạo tôn giáo chính thống
trong các cuộc tranh luận công khai, đặt câu hỏi về
những niềm tin truyền thống và gặp gỡ mọi người từ
mọi nẻo đường cuộc sống. Ông đọc rất nhiều, mọi thứ
ông có thể tìm thấy để mở rộng hiểu biết của mình về
hệ thống niềm tin và tâm lí của con người hiện đại. Đến cuối những năm 1960 Osho đã bắt đầu phát
triển các kĩ thuật thiền động duy nhất của mình. Con
người hiện đại, ông nói, bị quá nặng gánh với những
truyền thống lạc hậu của quá khứ và những lo âu của
cuộc sống hiện đại đến mức người đó phải trải qua
một tiến trình tẩy rửa sâu sắc trước khi người đó có
thể hi vọng khám phá ra trạng thái thảnh thơi, vô suy
nghĩ của thiền. Trong quá trình làm việc của mình, Osho đã nói
về mọi khía cạnh thực của việc phát triển tâm thức
con người. Ông đã cô đọng tinh hoa của điều có ý
nghĩa cho việc truy tìm tâm linh của con người hiện
đại, dựa trên không chỉ hiểu biết trí tuệ mà được kiểm
nghiệm lại theo kinh nghiệm sống của riêng ông. Ông không thuộc về tín ngưỡng nào cả - “Tôi là
người bắt đầu cho một tâm thức tôn giáo hoàn toàn
mới,” ông nói. “Xin đừng gắn tôi với quá khứ - điều
đó thậm chí chẳng đáng nhớ lấy.” Bài nói của ông cho các đệ tử và người tìm kiếm
tâm linh đã được xuất bản trong hơn sáu trăm năm
mươi tập, và đã được dịch sang hơn bốn mươi ba thứ
tiếng. Và ông nói, “Thông điệp của tôi không phải là
học thuyết, không phải là triết lí. Thông điệp của tôi là
giả kim thuật nào đó, khoa học về biến đổi, cho nên
chỉ những ai sẵn sàng chết như họ hiện tại và được
sinh ra lần nữa trong cái gì đó mới đến mức họ không
thể nào hình dung ra được điều đó ngay bây giờ... chỉ
vài người dũng cảm mới sẵn sàng lắng nghe, vì lắng
nghe là sắp nguy hiểm. “Lắng nghe, bạn đã bước đi bước đầu tiên hướng
tới tái sinh. Cho nên đấy không phải là triết lí mà bạn
có thể chỉ choàng vào người và đi khoác lác về nó.
Đấy không phải là học thuyết mà bạn có thể tìm ra sự
khuây khoả cho những câu hỏi phiền nhiễu. Không,
thông điệp của tôi không phải là sự truyền giao bằng
lời nào đó. Nó còn nguy hiểm hơn thế nhiều. Nó
không gì khác hơn là chết và tái sinh.” Osho rời khỏi thân thể ngày 19 tháng 01 năm
1990. Cộng đồng khổng lồ của ông ở Ấn Độ tiếp tục
là trung tâm trưởng thành tâm linh lớn nhất trên thế
giới hấp dẫn hàng nghìn khách thăm quốc tế, tới để
tham dự vào thiền, trị liệu, các chương trình sáng tạo,
hay chỉ để chứng nghiệm bản thể trong phật trường. Cộng đồng này là một trường phái kì diệu cho
việc thám hiểm bên trong. Đó là cuộc phiêu lưu lớn
lao nhất có đó, và cũng là cuộc liên hoan lớn nhất. Con đường mà bạn phải đi qua, bạn sẽ phải đi qua
một mình; nhưng việc biết rằng bao nhiêu người cũng
đang du hành đơn độc sẽ đem lại cho bạn sự động
viên lớn lao. Một ốc đảo nhỏ mà trong đó cuộc sống đang diễn
ra với một cái nhìn hoàn toàn khác; nơi cuộc sống
diễn ra có mục đích, ý nghĩa, nơi cuộc sống diễn ra có
phương pháp, nơi cuộc sống diễn ra trong tỉnh táo,
nhận biết, tỉnh thức; nơi cuộc sống không phải chỉ là
điều ngẫu nhiên, nơi cuộc sống bắt đầu trở thành ngày
một trưởng thành hơn theo một chiều hướng nào đó. Và đây không phải là một tu viện Ấn Độ; đây là
một cộng đồng quốc tế, một nơi gặp gỡ của Đông và
Tây. Cộng đồng này đại diện cho toàn bộ loài người,
không phải về quá khứ mà là về tương lai. Nỗ lực của chúng tôi là để làm cho thiền trở thành
có sẵn cho từng người và mọi người; bất kì ai muốn
thiền, thì thiền đều sẵn có tương ứng với kiểu của
người đó. Nếu người đó cần nghỉ ngơi, thì nghỉ ngơi
cũng nên là thiền của người đó. “Ngồi yên lặng không
làm gì cả, rồi con suối tới và cỏ tự nó vươn lên” - đó
sẽ là thiền của người đó. Chúng ta phải tìm ra thật
nhiều chiều hướng cho thiền, nhiều như số người trên
thế gian này. Và khuôn mẫu phải đừng quá cứng
nhắc, vì chẳng có hai cá nhân nào lại như nhau cả.
Đây là một cuộc cách mạng. Cá nhân phải không bị
đóng khít vào khuôn mẫu; nhưng khuôn mẫu thì phải
vừa vặn với cá nhân. Đó là lí do tại sao bạn thấy có
nhiều cách thiền thế đang diễn ra ở đây. Cách thức thì
có thể là tích cực hay thụ động, cũng chẳng thành vấn
đề gì, mục tiêu là một: làm sao làm cho bạn thành im
lặng đến mức tất cả mọi việc suy nghĩ đều biến mất
và bạn chỉ còn là tấm gương, phản chiếu cái đang đấy. Trong cộng đồng này có ít nhất năm mươi nhóm
trị liệu đang tiến hành, bởi một lí do nào đó. Đấy chỉ
là cách làm cân bằng lại cho hàng nghìn năm kìm nén.
Đấy chỉ là để đem lại sự nhẹ nhàng cho tất cả những
cái bạn đã kìm nén - như người công giáo, người
Hindu, phật tử. Nó chỉ hoàn tác lại cái hại của hàng
thế kỉ cũ kĩ đã gây cho bạn. Các nhóm trị liệu này
không phải là cứu cánh; chúng chỉ chuẩn bị cho bạn
để thiền, việc chứng kiến thụ động về các ý nghĩ, xúc
động và hành động mà không đánh giá hay đồng nhất. Sự bừng sáng của mỗi ngày lại là sự gặp gỡ vào
buổi tối: một buổi lễ hai giờ với âm nhạc, nhẩy múa
và thiền im lặng theo dõi một trong những bài nói của
Osho “Đấy không phải là bài học; đấy chỉ đơn thuần là
một phương tiện để làm cho bạn thành im lặng, vì nếu
yêu cầu bạn phải im lặng mà không nỗ lực gì thì bạn
sẽ thấy rất khó khăn. Tôi đang làm cho bạn im lặng
mà không phải nỗ lực gì về phần bạn cả. Việc nói của
tôi trước hết là để dùng như một chiến lược tạo ra sự
im lặng trong bạn.” http://www.osho.com 17 Koregaon Park Osho International Office email: “Lời thầy hàm chứa im lặng quanh đó, lời thầy
không phải là tiếng động. Lời thầy có giai điệu, có
nhịp điệu, có âm nhạc và tại chính cốt lõi của lời thầy
là im lặng hoàn toàn. Nếu bạn có thể hiểu thấu lời
thầy, bạn sẽ đi xuyên vào im lặng vô hạn này. Nhưng
để hiểu thấu lời của Phật, cách thức không phải là
phân tích, cách thức không phải là biện luận, cách
thức không phải là tranh luận. Cách thức là chìm vào
quan hệ với thầy, trở thành hoà hợp với thầy, đồng bộ
với thầy. Trong hoà hợp đó, trong sự chân thành đó,
người ta đi vào trong chính cốt lõi lời thầy. Và ở đó
bạn sẽ không tìm thấy bất kì âm thanh nào, bất kì
tiếng động nào; ở đó bạn sẽ thấy im lặng tuyệt đối. Và
nếm trải nó là hiểu thầy.” “Từ lời tôi bạn có thể bùng cháy, nhưng bạn sẽ
không thể nào tìm ra bất kì lí thuyết, học thuyết nào.
Bạn có thể tìm ra cách sống, nhưng không tìm ra được
giáo lí để thuyết giáo. Bạn có thể tìm ra tính cách nổi
dậy hay tiêm nhiễm nhưng bạn sẽ không tìm thấy chủ
đề cách mạng nào được tổ chức. “Lời tôi không chỉ là ngọn lửa. Tôi đang đặt thuốc
nổ đây đó, chúng sẽ nổ tung trong nhiều thế kỉ. Tôi
đang đặt nhiều hơn là sự cần thiết - tôi chưa bao giờ
tính hết cơ hội. Gần như từng câu đều dự định để tạo
ra rắc rối cho bất kì ai muốn tổ chức tôn giáo quanh
tôi.” Về Osho
Cộng đồng Osho quốc tế
Pune, Ấn Độ
Để biết thêm thông tin
Osho Commune International
Pune 411 011 (MS) India
Tel:
+ 91 (212) 628 562
Fax:
+ 91 (212) 624 181
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
37 Upper Brook Street,
London W1K 7PR
United Kingdom
Tel. +44. (0) 207 493 5001
Fax. +44. (0) 207 493 1203
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
http://www.osho.com/oshointernational
http://oshovietnam.net/
http://oshovietnam.wordpress.com/